Phần 1: Cách mạng nhận thức
Có 3 cuộc cách mạng quan trọng định hình tiến trình lịch sử: Cách mạng Nhận thức, Cách mạng Nông nghiệp, Cách mạng Khoa học. Cuốn sách này kể câu chuyện về việc ba cuộc cách mạng đó đã tác động đến loài người và những sinh vật cùng sống với họ ra sao.
★★
Các nhà sinh học phân chia sinh vật thành các loài. Động vật được cho là cùng loài nếu chúng có xu hướng giao phối với nhau, sinh con hữu thụ.
Các loài tiến hóa từ một tổ tiên chung được tập hợp lại thành một chi. Chúng ta thuộc về Homo sapiens - loài sapiens (tinh khôn) của chi Homo (người).
Các chi được nhóm thành các họ.
Homo sapiens thuộc về cùng một họ.
Ý nghĩa thực sự của từ "Con người" là "một con vật thuộc chi Homo", và trong chi này từng tồn tại nhiều loài khác bên cạnh Homo sapiens, ví dụ như Homo rudolfensis (Đông Phi), Homo erectus (Đông Á), Homo neanderthalensis (Châu Âu & Tây Á). Trong cuốn sách này, tác giả sử dụng thuật ngữ "Sapiens" để chỉ các thành viên của loài Homo sapiens (tức chúng ta), và dành riêng thuật ngữ "Con người" để chỉ tất cả các thành viên còn lại của chi Homo.
Một quan niệm sai lầm phổ biến là cho rằng các loài này đã được sắp xếp theo trực hệ: ergaster tiến hóa thành erectus, erectus tiến hóa thành Neanderthal, Neanderthal tiến hóa thành chúng ta. Mô hình tuyến tính này tạo ra sự nhầm lẫn rằng tại bất kỳ thời điểm này cũng chỉ có một loài người trên trái đất, và rằng tất cả các loài trước đó là những phiên bản lỗi thời của chúng ta. Sự thật là từ khoảng 2 triệu cho đến khoảng 10.000 năm trở lại đây, tại cùng một thời điểm, thế giới là ngôi nhà của một số loài người.
Cái giá của tư duy
Con người có bộ não cực lớn so với các loài động vật khác. Bộ não người tối cổ khoảng 600 cm3.. Bộ não trung bình của Sapiens hiện đại khoảng 1200 - 1400 cm3.
Bộ não chiếm khoảng 2-3% trọng lượng cơ thể nhưng sử dụng tới 25% năng lượng của cơ thể khi cơ thể ở trạng thái nghỉ ngơi. Người cổ đại phải trả giá cho bộ não lớn theo 2 cách: Mất nhiều thời gian hơn để tìm thức ăn, và cơ bắp bị teo lại.
Một điểm riêng biệt nữa là con người đứng thẳng trên hai chân. Đứng thẳng giúp chúng ta dễ phát hiện kẻ thù hơn, bàn tay được tự do nên đã tiến hóa để có thể thực hiện các nhiệm vụ rất phức tạp như chế tác và sử dụng các công cụ tinh vi. Nhưng loài người đã phải trả giá cho việc có được tầm nhìn cao và bàn tay khéo léo bằng các bệnh đau lưng và vôi hóa đốt sống cổ.
Dáng đi thẳng làm cho hông hẹp lại, chèn ép đường sinh nở của phụ nữ trong khi đầu của trẻ sơ sinh ngày càng lớn hơn, điều này khiến phụ nữ dễ chết khi sinh con. Do đó, chọn lọc tự nhiên ủng hộ việc sinh non, khi não và đầu của trẻ sơ sinh vẫn còn tương đối nhỏ và mềm. Nhưng vì con người được sinh sớm, nhiều bộ phận quan trọng vẫn còn chưa phát triển, nên trẻ sơ sinh phải phụ thuộc nhiều năm vào bố mẹ để nhận sự nuôi dưỡng, bảo vệ và giáo dục, trong khi một con ngựa con có thể đứng dậy ngay sau khi được sinh ra, một con mèo con có thể tự kiếm ăn khi chỉ mới một vài tuần tuổi.
Nuôi con đòi hỏi sự giúp đỡ liên tục từ các thành viên khác trong gia đình và hàng xóm. Cả một bộ tộc phải cùng chung sức nuôi dưỡng một con người. Do đó, tiến hóa ủng hộ những ai có thể hình thành các mối quan hệ xã hội chặt chẽ. Ngoài ra, do con người được sinh ra khi chưa phát triển hoàn thiện, nên họ có thể được giáo dục và xã hội hóa ở một mức độ lớn hơn nhiều so với bất kỳ động vật nào.
Chỉ trong 100.000 năm vừa qua, với sự gia tăng của Homo sapiens, con người nhảy lên đứng đầu chuỗi thức ăn. Bước nhảy vọt ngoạn mục từ vị trí giữa lên đầu chuỗi thức ăn mang đến những hệ quả to lớn. Loài người lên đỉnh chuỗi thức ăn nhanh tới mức các hệ sinh thái không có thời gian để điều chỉnh và cân bằng, con người cũng thất bại trong việc tự điều chỉnh. Thực chất, con người vẫn ở thế yếu trên đồng cỏ. Chúng ta sợ hãi và lo lắng về vị trí của mình, điều đó khiến cho chúng ta độc ác và nguy hiểm gấp đôi. Nhiều tai ương trong lịch sử, từ các cuộc chiến tranh đến những thảm họa sinh thái, đều là hậu quả của bước nhảy vọt tiến hóa quá vội vàng này.
Một giống loài biết nấu nướng
Một bước quan trọng trên con đường tới đỉnh là sự thuần hóa lửa. Lửa giúp con người nấu chín thức ăn. Sự xuất hiện của việc nấu nướng cho phép con người ăn được nhiều loại thức ăn, tốn ít thời gian cho chuyện ăn uống, khiến răng trở nên nhỏ hơn còn ruột thì ngắn hơn. Khi con người thuần hóa được lửa, họ đã kiểm soát được một sức mạnh có tiềm năng vô hạn và dễ sai khiến.
Các anh em của chúng ta
Trong 70.000 năm, Sapiens đã từ Đông Phi lan sang Ả-rập, Châu Á, Châu Âu, hễ Sapiens đặt chân đến một nơi mới thì chẳng bao lâu sau cư dân bản địa sẽ bị tuyệt chủng.
Bí mật của Sapiens là gì? Làm thế nào chúng ta đẩy được tất cả loài người khác vào quên lãng?
Câu trả lời là: Homo Sapiens chinh phục thế giới nhờ ngôn ngữ độc đáo của mình.
Cách mạng Nhận thức
Những cách suy nghĩ và giao tiếp mới xuất hiện trong thời kỳ cách đây 70.000 - 30.000 năm trước đã tạo nên Cách mạng Nhận thức.
Ngôn ngữ của chúng ta linh hoạt một cách kinh ngạc. Chúng ta có thể kết nối một số nhất định các âm thanh và dấu hiệu để tạo nên vô số câu, mỗi câu lại có ý nghĩa riêng biệt. Do đó chúng ta có thể hấp thu, lưu trữ và truyền đạt một lượng thông tin khổng lồ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ của chúng ta là một phương tiện để chia sẻ thông tin về thế giới.
Ngôn ngữ của chúng ta phát triển như là một cách để tán gẫu. Các kỹ năng ngôn ngữ mới cho phép Sapiens tán gẫu nhiều giờ liền. Nhờ có được thông tin xác thực về thành viên đáng tin cậy mà những bầy nhỏ có thể mở rộng thành những bầy lớn hơn, và Sapiens có thể phát triển sự hợp tác chặt chẽ và tinh vi hơn.
Đặc điểm độc đáo nhất trong ngôn ngữ của chúng ta là khả năng truyền tải thông tin về những thứ không tồn tại. Chỉ Sapiens mới có thể nói về mọi thứ mà họ chưa bao giờ thấy, chạm vào hoặc ngửi mùi. Chỉ Homo sapiens mới có thể nói về những điều không thực sự tồn tại, những điều hư cấu.
Hư cấu không chỉ giúp chúng ta tưởng tượng, mà còn tưởng tượng cùng nhau. Chúng ta có thể thêu dệt những huyền thoại phổ biến như câu chuyện sáng thế, những huyền thoại dân tộc của các quốc gia hiện đại. Những huyền thoại như vậy mang lại cho Sapiens khả năng hợp tác linh hoạt với vô số người xa lạ.
Bất kỳ sự hợp tác nào của con người ở quy mô lớn đều bắt nguồn từ những huyền thoại phổ biến vốn chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng tập thể của nhân dân. Giáo hội bắt nguồn từ những huyền thoại tôn giáo chung. Các quốc gia bắt nguồn từ những huyền thoại chung về dân tộc. Hệ thống tư pháp bắt nguồn từ những huyền thoại chung về luật pháp.
Theo năm tháng, con người đã thêu dệt nên một mạng lưới những câu chuyện phức tạp khó tin. Những thứ con người tạo ra thông qua mạng lưới các câu chuyện này được biết đến là "hư cấu", "cấu trúc xã hội", "thực tế tưởng tượng".
Một thực tế tưởng tượng là điều mà mọi người đều tin vào, chừng nào niềm tin cộng đồng này còn tồn tại, thì chừng đó thực tế tưởng tượng còn thể hiện sức mạnh lên thế giới.
Kể từ Cách mạng Nhận thức, Sapiens đã sống trong một thực tế kép. Một mặt là thực tế khách quan về các dòng sông, cây cối, sư tử, và mặt khác là thực tế tưởng tượng của các vị thần, quốc gia, công ty.
Bỏ qua bộ gen
Khả năng tạo ra một thực tế tưởng tượng bằng từ ngữ cho phép vô số người lạ hợp tác hiệu quả. Homo Sapiens đã sớm vượt xa tất cả các loài người và động vật khác về khả năng hợp tác của mình.
Các thay đổi trong mô hình xã hội, sự phát minh ra công nghệ mới, sự định cư trong các môi trường sống xa lạ là kết quả của đột biến gen và áp lực môi trường. Phải mất hàng triệu năm để con người thực hiện các bước trên. Nhưng kể từ Cách mạng Nhận thức, Sapiens đã có thể thay đổi hành vi của họ một cách nhanh chóng mà không cần bất kỳ sự thay đổi di truyền hoặc môi trường nào.
Trong khi các mô hình hành vi của con người cổ xưa vẫn cố định trong hàng chục ngàn năm, thì Sapiens đã có thể biến đổi cấu trúc xã hội của mình, bản chất các mối quan hệ giữa các cá nhân, hoạt động kinh tế và một loạt các hành vi khác chỉ trong vòng một hoặc hai thập kỷ.
Một xã hội nguyên thủy giàu có
Một người cổ đại trung bình có nền tảng kiến thức rộng hơn, sâu hơn và hiểu biết đa dạng về môi trường xung quanh hơn. Chẳng hạn như hiểu biết về quá trình phát triển của từng loại cây và các thói quen của mỗi loài vật. Biết những loại thực phẩm nào ăn được, loại nào độc hại và loại nào dùng để chữa bệnh. Biết chế tác công cụ, biết cách đối mặt với tuyết lở, rắn cắn hoặc sư tử đói. Sống sót trong thời đại đó đòi hỏi mỗi cá nhân phải có năng lực trí tuệ siêu phàm.
Người cổ đại còn làm chủ cả thế giới bên trong cơ thể và các giác quan của chính mình. Họ lắng nghe những chuyển động nhỏ nhất trong đám cỏ để xem liệu có một con rắn đang ẩn náu ở đó hay không. Họ di chuyển tốn ít sức lực nhất và gây ít tiếng ồn nhất. Họ có nền tảng thể chất mà con người ngày nay không thể đạt được.
Về tổng thể, người cổ đại dường như đã tận hưởng một cuộc sống thoải mái hơn và thú vị hơn hầu hết các nông dân, người chăn nuôi gia sức, người lao động và nhân viên văn phòng. Người cổ đại còn vui vẻ với lượng công việc nội trợ nhẹ nhàng hơn. Họ không có bát đũa để rửa, không có thảm để hút bụi, không có sàn nhà để đánh bóng, không có tã lót để thay và không có hóa đơn để thanh toán.
Chế độ dinh dưỡng của những người hái lượm cổ xưa khiến họ cao hơn và khỏe mạnh hơn con cháu nông dân của họ sau này. Bí mật nằm ở chế độ ăn uống đa dạng của họ. Người cổ đại thường xuyên ăn hàng chục loại thực phẩm khác nhau: hoa quả, nấm, trái cây, ốc sên và rùa, thị thỏ nướng và hành tây dại. Thực đơn ngày mai có thể hoàn toàn khác. Còn người hiện đại chỉ ăn lúa mì, khoai tây, gạo, bị thiếu một số vitamin và khoáng chất cần thiết cho con người.
Người hái lượm cổ đại cũng ít chịu các bệnh truyền nhiễm. Vì hầu hết các bệnh truyền nhiễm được sản sinh ra từ xã hội nông nghiệp và công nghiệp có nguồn gốc từ động vật được thuần hóa và truyền bệnh cho con người. Mọi người sống trong những khu định cư lâu dài đông đúc, mất vệ sinh, là các hang ổ lý tưởng cho dịch bệnh.
Thủ phạm của các vụ tuyệt chủng
Trong phần này, tác giả đưa ra các chứng cứ chứng minh Sapiens là thủ phạm của các vụ tuyệt chủng hàng loạt ở châu Úc, châu Mỹ, Á-Phi, Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Bắc cực và Địa Trung Hải. Sapiens đã gây ra những thảm họa sinh thái lớn nhất và nhanh nhất ập đến thế giới động vật, từ các loài động vật kích thước khổng lồ, đến các quần thể độc nhất vô nhị các loài thú, hàng trăm loài chim, côn trùng, ốc sên, và những cư dân địa phương khác.
Làn sóng tuyệt chủng Thứ nhất, đi cùng với sự xuất hiện rộng khắp của người hái lượm, đã được tiếp nối bằng Làn sóng Tuyệt chủng Thứ hai, kèm theo sự có mặt khắp nơi của nông dân, Làn sóng Tuyệt chủng Thứ ba do các hoạt động công nghiệp ngày nay gây ra. Chúng ta nổi tiếng mờ ám như một loài sinh vật giết chóc nhất trong biên niên sử sinh học.
Phần 2: Cách mạng Nông nghiệp
Sự lừa dối lớn nhất lịch sử
Ở bất cứ nơi nào Sapiens đến, họ cũng đều tiếp tục hái lượm thực vật mọc hoang và săn bắt động vật hoang dã. Lối sống này khiến họ no đủ và giúp phát triển một thế giới phong phú của những cấu trúc xã hội, tín ngưỡng tôn giáo và động lực chính trị.
Nhưng tất cả những điều này đã thay đổi cách đây khoảng 10.000 năm, khi Sapiens bắt đầu dành hầu hết thời gian và nỗ lực của mình nhằm thao túng cuộc sống của một số loài động thực vật. Từ sáng sớm cho đến lúc hoàng hôn, con người gieo hạt, tưới nước cho cây, nhổ cỏ dại, và lùa cừu tới những đồng cỏ tươi tốt. Họ nghĩ rằng việc này sẽ cung cấp cho mình thêm nhiều trái cây, ngũ cốc và thịt. Đó là cuộc Cách mạng Nông nghiệp.
Thay vì báo hiệu cho một kỷ nguyên mới dễ sống, Cách mạng Nông nghiệp lại đem tới cho nông dân cuộc sống có vẻ khó khăn hơn và ít thỏa mãn hơn so với người hái lượm. Cách mạng Nông nghiệp tất nhiên đã làm tăng tổng lượng thức ăn dự trữ của loài người, nhưng nhiều thức ăn không có nghĩa là có một chế độ ăn tốt hơn. Nó biến thành những đợt bùng nổ dân số và tạo ra giới tinh hoa được nuông chiều. Những nông dân bình thường phải làm việc vất vả hơn những kẻ hái lượm bình thường mà lại cái chế độ ăn uống tồi hơn. Cách mạng Nông nghiệp là sự lừa dối lớn nhất của lịch sử.
Cơ thể của Homo Sapiens không được tiến hóa cho những nhiệm vụ như dọn dẹp các cánh đồng, trông chừng lúa khỏi bị hư hại bởi thỏ hay châu chấu, diệt trừ sâu bệnh và rệp, rẫy cỏ, tưới nước, bón phân,... Cơ thể của Homo Sapiens thích nghi với việc trèo lên cây hoặc đuổi theo những con thú, chứ không phải để dọn sạch đất đá hay xách những thùng nước. Xương sống, đầu gối, cổ và xương sườn của con người đã phải trả giá. Chuyển sang làm nông nghiệp dường như đã mang đến rất nhiều bệnh tật như trẹo khớp, viêm khớp và sa ruột. Những công việc làm nông đòi hỏi rất nhiều thời gian nên con người buộc phải định cư lâu dài gần cánh đồng lúa mì của mình. Điều này đã thay đổi hoàn toàn lối sống của họ.
Con người là một loài vượn ăn tạp, phát triển mạnh nhờ việc ăn đủ loại thức ăn. Ngũ cốc chỉ là một phần rất nhỏ trong chế độ ăn uống của con người trước Cách mạng Nông nghiệp. Một chế độ ăn uống chỉ dựa vào ngũ cốc thì rất nghèo vitamin và khoáng chất, khó tiêu hóa, thực sự không tốt cho răng và lợi của bạn.
Lúa mì không mang lại an toàn lương thực cho con người. Cuộc sống của người nông dân kém an toàn hơn cuộc sống của kẻ săn bắt hái lượm. Nếu không có mưa, hoặc có những đám mây châu chấu bay đến, hoặc có một loại nấm ký sinh gây bệnh cho lúa mì, khoai tây hoặc lúa, hàng ngàn hàng triệu nông dân sẽ chết đói.
Lúa mì cũng không thể bảo vệ con người trước bạo lực. Nếu một bầy hái lượm bị các đối thủ mạnh hơn chèn ép, họ chỉ đơn giản bỏ đi. Nhưng nếu một kẻ thù mạnh đe dọa một làng nông nghiệp, thì rút lui có nghĩa là phải bỏ lại ruộng đồng, nhà cửa, kho lương thực. Vì vậy, nông dân có khuynh hướng ở lại và chiến đấu đến cùng.
Cái bẫy xa xỉ
Cùng với việc chuyển thành những ngôi làng định cư và nguồn cung thực phẩm tăng lên, dân số cũng bắt đầu gia tăng. Những đứa trẻ được cai sữa từ rất sớm, được cho ăn cháo và bột nấu lỏng. Rất cần thêm những bàn tay phụ giúp trên ruộng đồng. Nhưng những miệng ăn nhanh chóng ngốn hết lượng thực phẩm dư, nên phải mở rộng thêm đồng ruộng để trồng trọt. Vì con người bắt đầu sinh sống ở những khu định cư đầy mầm bệnh, vì trẻ con được cho ăn nhiều ngũ cốc hơn và ít sữa mẹ hơn, và vì mỗi đứa trẻ phải giành giật cháo với anh chị em của mình, nên tỷ lệ tử vong ở trẻ em cũng tăng vọt.
Trẻ em chết lũ lượt, còn người lớn thì ăn thứ bánh mì phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được. Khi các kho lương thực của nông dân bị trộm cắp, họ bắt buộc phải xây tường bảo vệ và canh gác chúng. Họ sống cực khổ hơn tổ tiên của mình.
Việc mưu cầu một cuộc sống dễ chịu hơn đã dẫn đến nhiều thử thách cam go hơn cho chính chúng ta hôm nay. Chúng ta tốt nghiệp và chấp nhận làm những công việc căng thẳng để kiếm tiền, mong rằng có thể về hưu và theo đuổi những công việc chúng ta thực sự yêu thích ở tuổi 35. Nhưng theo thời gian và đến tuổi đó, ta lại có nhiều giấy vay nợ, những đứa con đi học, những nhu cầu vật chất cao hơn. Chúng ta sẽ phải nỗ lực gấp đôi và làm việc như nô lệ.
Trong một vài thế kỷ gần đây, chúng ta đã phát minh ra vô số thiết bị để tiết kiệm thời gian: máy giặt, máy hút bụi, máy rửa bát, điện thoại, điện thoại di động, máy vi tính, email. Nhưng chúng ta có thực sự đang sống một cuộc đời thảnh thơi hơn hay không? Chúng ta nghĩ rằng mình đang tiết kiệm thời gian, nhưng thực chất chúng ta tăng tốc guồng quay cuộc sống lên chục lần so với tốc độ trước đây, làm cho những ngày làm việc của mình trở nên đầy lo âu và bối rối.
Những nạn nhân của Cách mạng
Theo góc nhìn tiến hóa, thành công là sự gia tăng số lượng bản sao DNA, thì Cách mạng Nông nghiệp là ân huệ tuyệt vời cho gà, gia súc, lợn và cừu.
Nhưng góc nhìn tiến hóa là một đánh giá không hoàn chỉnh về sự thành công. Nó phán xét mọi thứ bằng tiêu chuẩn về sống sót và sinh sản mà không quan tâm đến nỗi đau khổ hay niềm hạnh phúc của mỗi cá thể. Gà và gia súc thuần hóa có thể là một câu chuyện tiến hóa thành công, nhưng chúng là những sinh vật khốn khổ nhất từng tồn tại. Thuần hóa động vật được dựa trên các biện pháp tàn bạo nhất và ngày càng trở nên độc ác hơn.
Các loài động vật thuần hóa sẽ bị giảm tuổi thọ so với khi sống trong môi trường hoang dã. Chúng bị nô dịch hóa trong một cuộc sống hoàn toàn xa lạ với những nhu cầu và khát vọng của chúng. Chúng bị phá vỡ các bản năng tự nhiên, phải kìm lại tính hung hăng và bản năng tình dục, bị tước đi sự tự do di chuyển. Đối với đại đa số các loài vật đã thuần hóa, Cách mạng Nông nghiệp là một thảm họa tồi tệ.
Để hiểu rõ hơn về sự tồi tệ này đối với động vật, bạn có thể tham khảo cuốn sách "Thức ăn vì thế giới hòa bình" mình đã từng tóm tắt và review [Link]
Sự xuất hiện của tương lai
Cách mạng Nông nghiệp là một bước ngoặt nơi mà con người vứt bỏ mối quan hệ cộng sinh mật thiết với tự nhiên, trở nên tham lam và tha hóa. Nông nghiệp đã làm cho dân số tăng lên triệt để và nhanh chóng. Một nông dân thường phát sinh sự gắn bó mật thiết với cánh đồng hoặc vườn cây của mình. Từ đó, sự gắn bó với "nhà của tôi" và sự tách biệt với những người hàng xóm trở thành dấu hiệu tâm lý của loài sinh vật tự lấy mình làm trung tâm.
Người hái lượm không tính đến tương lai, nhưng điều này giúp họ bớt lo âu khá nhiều. Cách mạng Nông nghiệp đã làm cho tương lai xa trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nông dân luôn giữ tương lai ở trong đầu và phải làm việc để phục vụ nó. Mặc dù có đủ thức ăn cho hôm nay, tuần tới, và kể cả tháng tới, nhưng họ vẫn phải lo lắng về năm sau và năm sau nữa.
Nhưng thật đáng buồn, người nông dân cần cù hầu như không bao giờ đạt tới sự đảm bảo về kinh tế trong tương lai mà họ rất khao khát có được qua việc lao động cực nhọc ở hiện tại. Ở khắp nơi, những kẻ cai trị và giới tinh hoa xuất hiện, sống bằng thực phẩm dư thừa của nông dân và bỏ mặc họ với cuộc sống nghèo nàn.
Một trật tự tưởng tượng
Con người bắt đầu tập hợp thành các thành phố, các vương quốc và mạng lưới thương mại mới. Để đảm bảo rằng họ có thể thống nhất với nhau về việc phân chia đất đai hay nguồn nước, cũng như làm thế nào để xoa dịu các cuộc tranh luận hoặc xung đột, và làm gì trong thời kỳ hạn hán hoặc chiến tranh, con người đã sáng tạo các câu chuyện về các vị thần vĩ đại, đất mẹ và công ty cổ phần để cung cấp những mối liên kết xã hội cần thiết. Như đã đề cập ở phần 1, con người hợp tác được là nhờ những huyền thoại chung giữa họ. Tất cả các quy tắc xã hội cũng dựa trên niềm tin vào những huyền thoại chung.
Chúng ta tin vào một trật tự riêng biệt không phải vì nó là một sự thật khách quan, mà bởi tin vào nó sẽ làm chúng ta có thể hợp tác hiệu quả và tạo nên một xã hội tốt đẹp hơn.
Một trật tự tưởng tượng được giữ vững bằng những người thực sự tin tưởng vào trật tự đó. Một trật tự tưởng tượng chỉ có thể được duy trì nếu phần lớn dân chúng, đặc biệt là phần đông giới tinh hoa và lực lượng an ninh thực sự tin vào nó. Nền dân chủ của Mỹ sẽ không thể kéo dài 250 năm nếu như đa số các tổng thống và nghị sĩ không còn tin vào nhân quyền. Hệ thống kinh tế hiện đại sẽ không thể tồn tại nếu phần lớn các nhà đầu tư và chủ ngân hàng không còn tin vào chủ nghĩa tư bản.
Chữ viết
Các đế chế tạo ra những lượng thông tin khổng lồ: luật pháp, các tài khoản giao dịch và các loại thuế, bản kiểm kê vật tư quân đội và các tàu buôn lớn, lịch của các lễ hội và chiến thắng. Trong hàng triệu năm, con người chưa thông tin ở một nơi duy nhất - bộ óc của mình. Nhưng bộ óc con người không phải là một thiết bị lưu trữ tốt. Năng lực của bộ não có giới hạn. Khi con người chết đi, bộ óc của họ cũng chết theo, thông tin chứa trong bộ óc đó cũng sẽ bị xóa sạch.
Khi những xã hội đặc biệt phức tạp bắt đầu xuất hiện, một dạng thông tin mới hoàn toàn bắt đầu trở nên quan trọng - những con số. Để duy trì một vương quốc rộng lớn, các dữ liệu toán học rất quan trọng. Các vương quốc cần phải thu thuế, thu thập số liệu về thu nhập và tài sản của từng người, số liệu về những khoản thanh toán, số liệu về số nợ còn khất lại, số tiền vay chưa trả và tiền phạt, số liệu về phần tiền được giảm giá và miễn thuế.
Thời kỳ 3500-3000 TCN, người Sumer cổ đại (sống ở phía nam Lưỡng Hà) đã phát minh ra một hệ thống để lưu giữ và xử lý thông tin bên ngoài bộ não của họ, đó là chữ viết.
Không có công lý trong lịch sử
Con người có thể tổ chức mình trong những mạng lưới hợp tác đại chúng là vì con người đã sáng tạo ra các trật tự tưởng tượng và các kiểu chữ viết. Hai phát minh này đã lấp đầy những khoảng trống mà sự kế thừa sinh học của chúng ta để lại.
Những trật tự tưởng tượng duy trì những mạng lưới này không trung lập và cũng không công bằng. Chúng phân chia con người thành những nhóm không có thật, sắp xếp họ và một hệ thống phân tầng. Ví dụ như người tự do và nô lệ, người da trắng và người da đen, người giàu và người nghèo, quý tộc và bình dân.
Hầu hết các hệ thống phân tầng chính trị xã hội đều thiếu một nền tảng logic hay sinh học cơ bản - chúng chẳng là gì ngoài việc duy trì các sự kiện tình cờ, được hỗ trợ bởi những huyền thoại. Sự phân biệt về mặt sinh học giữa những nhóm Homo Sapiens khác nhau là không đáng kể trong thực tế, nên sinh học không thể giải thích được những sự phức tạp của xã hội Ấn Độ hoặc những động cơ kỳ thị chủng tộc của người Mỹ. Chúng ta chỉ có thể hiểu được những sự kiện trên bằng cách nghiên cứu các sự kiện, sự việc và mối quan hệ quyền lực đã biến những điều bịa đặt của trí tưởng tượng thành những cấu trúc xã hội tàn nhẫn và rất thực tế.
Sự phân tầng nam - nữ
Con người ở tất cả mọi nơi tự phân chia bản thân họ thành đàn ông và đàn bà. Và ở mọi nơi, hầu hết đàn ông đều được đối xử tốt hơn, ít nhất là từ sau Cách mạng Nông nghiệp.
Một số bất bình đẳng văn hóa, pháp luật và chính trị giữa đàn ông và đàn bà phản ánh sự khác nhau sinh học hiển nhiên giữa các giới. Nhưng mỗi xã hội đều có các quan điểm và quy tắc văn hóa, có rất ít liên quan về mặt sinh học. Các xã hội liên kết một loạt các thuộc tính với nam tính và nữ tính, hầu hết chúng đều thiếu một nền tảng sinh học vững chắc.
Mẹ Thiên nhiên không quan tâm nếu những người đàn ông cảm thấy hấp dẫn tình dục với nhau. Chỉ có những người mẹ của loài người sẽ gây chuyện cãi lộn nếu con trai mình phải lòng cậu hàng xóm. Sinh học sẵn sàng chấp nhận một phạm vi rất rộng các khả năng có thể xảy ra. Chính văn hóa mới cưỡng ép con người nhận thức một số khả năng trong khi lại cấm đoán những khả năng khác.
Văn hóa thường nói rằng nó chỉ cấm những cái không tự nhiên. Nhưng từ quan điểm sinh học, không có gì là không tự nhiên. Bất cứ cái gì có thể xảy ra, theo định nghĩa đều là tự nhiên.
Sự thật là những định nghĩa của chúng ta về "tự nhiên" và "không tự nhiên" không dựa trên khía cạnh sinh học, mà từ thần học. Ý nghĩa của "tự nhiên" theo thần học là "tuân theo những ý muốn của Chúa, người đã tạo ra tự nhiên". Nếu chúng ta sử dụng cơ thể khác với mục đích của Chúa, thì điều này là không tự nhiên. Nhưng tiến hóa không có mục đích. Những cơ quan cơ thể không tiến hóa vì một mục đích nào cả và cách sử dụng chúng được thay đổi liên tục. Các cơ quan tiến hóa để thực hiện một chức năng riêng biệt, nhưng một khi đã tồn tại, chúng có thể được dùng cho những cách khác nữa.
Tình dục và giới tính
Hầu hết các bộ luật, các quy tắc, các
quyền và nghĩa vụ để xác định nam tính và nữ tính phản ánh trí tưởng tượng của
con người là một thực tế sinh học.
Về mặt sinh học, con người chia ra thành
giống đực và giống cái. Một giống đực Homo Sapiens là một người có một nhiễm sắc
thể X và một nhiễm sắc thể Y; một giống cái là người có hai nhiễm sắc thể XX.
Nhưng cái tên “đàn ông” và “đàn bà” là các phạm trù xã hội, không phải sinh học.
Những huyền thoại đã xác định vai trò, quyền và nghĩa vụ của người đàn ông và người
đàn bà, nên ý nghĩa của cụm từ “nam tính” và “nữ tính” đã thay đổi vô cùng từ
xã hội này sang xã hội khác.
Phần 3: Sự thống nhất của loài người
Mũi tên lịch sử
Sau Cách mạng Nông nghiệp, xã hội loài
người phát triển rộng lớn hơn và phức tạp hơn, trong khi những cấu trúc tưởng
tượng để duy trì trật tự xã hội cũng trở nên tinh vi hơn. Con người đã tạo ra
những bản năng nhân tạo, làm cho hàng triệu người xa lạ có thể hợp tác hiệu quả.
Mạng lưới những bản năng nhân tạo này được gọi là “văn hóa”.
Mỗi nền văn hóa đều có những niềm tin,
tiêu chuẩn và giá trị đặc thù, nhưng chúng thay đổi liên tục. Nền văn hóa có thể
biến đổi mình để đối phó lại với những thay đổi trong môi trường của nó hoặc
qua sự tương tác với các nền văn hóa láng giềng. Nhưng các nền văn hóa cũng trải
qua sự thay đổi do những động lực bên trong chúng.
Không giống như các định luật vật lý vốn
tránh được các mâu thuẫn, mỗi trật tự nhân tạo đều hàm chứa những mâu thuẫn nội
bộ. Ví dụ là về trật tự chính trị hiện đại. Kể từ Cách mạng Pháp, con người
trên toàn thế giới đã dần nhìn nhận bình đẳng và tự do cá nhân như những giá trị
cơ bản. Song, hai giá trị này lại mâu thuẫn nhau. Bình đẳng chỉ có thể được đảm
bảo bằng việc giảm bớt tự do của những cá nhân xuất sắc hơn. Đảm bảo rằng mỗi
cá nhân sẽ được tự do làm điều mình mong muốn chắc chắn sẽ hạn chế bình đẳng. Ở
Mỹ, Đảng Dân chủ mong muốn một xã hội bình đẳng hơn, dù có phải tăng thuế để
tài trợ cho các chương trình giúp đỡ người nghèo, già yếu và ốm đau. Nhưng điều
này đã xâm phạm đến tự do của các cá nhân trong việc sử dụng tiền của mình như
họ muốn. Còn Đảng Cộng hòa thì muốn tối đa hóa tự do cá nhân, dù rằng khoảng
cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo sẽ ngày càng lớn hơn.
Những mâu thuẫn như vậy là một phần
không thể tách rời trong mỗi nền văn hóa của con người. Trên thực tế, chúng là
những động cơ của sự phát triển văn hóa, là nguyên nhân cho óc sáng tạo và tính
năng động của loài người chúng ta. Các mâu thuẫn trong những suy nghĩ, ý tưởng
và giá trị đã buộc chúng ta phải suy nghĩ, tái đánh giá và phê bình.
Văn hóa của con người biến đổi không ngừng.
Lịch sử đang di chuyển không ngừng theo hướng thống nhất. Sau hàng thiên niên kỷ,
những nền văn hóa nhỏ bé và đơn giản dần dần hợp nhất thành một nền văn minh lớn
hơn và phức tạp hơn.
Ngày nay, hầu hết loài người chia sẻ cùng một hệ thống địa chính trị, kinh tế, pháp luật, khoa học.
Tiền
Ở thời săn bắt hái lượm, các bầy người chia sẻ hàng hóa và dịch vụ của mình thông qua một hệ thống kinh tế dựa trên sự chịu ơn và trả ơn. Một miếng thịt được tặng miễn phí có thể được đổi lại bằng sự giúp đỡ về mặt ý tế.
Vào thời điểm nổ ra Cách mạng Nông nghiệp,
con người vẫn theo kinh tế tự cung tự cấp, được duy trì bởi việc chịu ơn và trả
ơn lẫn nhau.
Sự ra đời của các thành phố và vương quốc,
cũng như việc cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông, đã mang đến những vận hội mới
cho công cuộc chuyên môn hóa. Một hệ thống kinh tế dựa trên sự chịu ơn và trả
ơn sẽ không thể hoạt động khi một lượng lớn những người xa lạ tham gia cùng. Vì
vậy, các xã hội đã phát triển tiền tệ.
Sự phát triển của tiền không đòi hỏi những
bước đột phá về công nghệ - mà hoàn toàn chỉ là cuộc cách mạng tinh thần. Nó
liên quan đến việc tạo ra một thực tại liên-chủ quan chỉ tồn tại trong trí tưởng
tượng được chia sẻ của con người.
Tiền là bất cứ thứ gì mà con người sẵn
sàng sử dụng để đại diện một cách có hệ thống cho giá trị của những thứ khác nữa,
phục vụ cho mục đích trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Tiền giúp con người so sánh
một cách nhanh nhất và dễ dàng nhất giá trị của những hàng hóa khác nhau.
Tiền là một phương tiện trao đổi phổ
quát, giúp con người có thể quy đổi hầu như mọi thứ này sang mọi thứ khác.
Tiền còn có thể để dành dụm như của cải.
Để dành dụm những của cải khác (ví dụ như kho ngũ cốc) sẽ tốn nhiều không gian
và đòi hỏi cơ sở vật chất và sự chăm sóc rất tốn kém. Người ta cũng cần vận
chuyển tài sản của mình từ nơi này sang nơi khác. Một số dạng của cải như bất động
sản thì không thể vận chuyển được. Còn lúa mì và gạo có thể vận chuyển được
nhưng rất khó khăn. Tiền sẽ giải quyết được tất cả những vấn đề này.
Tóm lại, vì tiền có thể chuyển đổi, tích
trữ và vận chuyển tài sản một cách dễ dàng với chi phí thấp, nó đã góp một phần
quan trọng cho sự xuất hiện của những mạng lưới thương mại phức tạp và những thị
trường năng động.
Tiền đã hoạt động
như thế nào?
Giá trị của tiền vỏ ốc và đồng đô-la chỉ
nằm trong trí tưởng tượng của chúng ta. Giá trị của chúng không nằm trong cấu
trúc hóa học, màu sắc và hình dáng của chúng. Nói cách khác, tiền không phải là
một thực tại vật chất, nó là một khái niệm tâm lý.
Tiền là một hệ thống của sự tin cậy lẫn
nhau, và không chỉ có vậy: tiền là một hệ thống phổ quát nhất và hiệu quả nhất
của sự tin cậy lẫn nhau từng được phát minh ra.
Con người vẫn nói những ngôn ngữ bất đồng
với nhau, tuân theo những quy tắc khác nhau và thờ phụng những vị Chúa riêng của
mình, nhưng tất cả đều tin tưởng vào vàng bạc và tiền bằng vàng và bạc. Nếu như
không có niềm tin chung này, thì các mạng lưới giao thương toàn cầu sẽ gần như
không thể hoạt động được.
Những tầm nhìn
đế quốc
Đế quốc (đế chế) là một trật tự chính trị có hai đặc tính quan trọng:
- Cai trị một lượng đáng kể những dân tộc khác biệt, mỗi dân tộc sở hữu một bản sắc văn hóa riêng biệt, và có một lãnh thổ riêng biệt. Khoảng mười mấy dân tộc.
- Đường biên giới linh hoạt và một tham vọng vô cùng tận.
Chính nhờ vào hai đặc điểm này mà các đế
quốc đã thành công trong việc thống nhất những nhóm sắc tộc và vùng sinh thái
đa dạng dưới một cây dù chính trị duy nhất, từ đó gắn kết ngày càng nhiều các bộ
phận chủng người và hành tinh Trái đất. Một số đế quốc nổi tiếng là đế quốc La
Mã, đế chế Athens, đế quốc Hán, đế quốc Anh.
Chúng ta đều biết đế quốc là các cỗ máy
tàn phá và bóc lột xấu xa. Sự thật là đế quốc đã và đang là hình thức tổ chức
chính trị phổ biến nhất trên thế giới trong suốt 2.500 năm qua. Hầu hết loài
người trong hai thiên niên kỷ rưỡi này đã sống trong các đế quốc. Đế quốc cũng
là một hình thái chính quyền rất ổn định. Hầu hết các đế quốc đều có thể dễ
dàng dập tắt những cuộc nổi loạn.
Việc xây dựng và duy trì nên một đế quốc
thường bắt buộc phải tàn sát nhẫn tâm một lượng lớn dân cư và đàn áp tàn bạo đối
với toàn bộ những người còn sống sót, chiến tranh, sự nô dịch hóa, trục xuất và
diệt chủng.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng
những đế quốc không để lại điều gì có giá trị. Chối bỏ toàn bộ di sản của đế quốc
chính là vứt bỏ hầu hết văn hóa loài người. Giới tính hoa đế quốc dùng lợi nhuận
từ những cuộc chinh phục để đầu tư cho quân đội, pháo đài, kiến trúc, triết học,
nghệt thuật, công lý và cả việc thiện nguyện.
Các đế quốc đã và đang đóng vai trò quyết
định trong việc hợp nhất nhiều nền văn hóa nhỏ thành một vài nền văn hóa lớn. Đế
quốc đã truyền bá một cách có chủ ý tư tưởng, thể chế, phong tục và các quy chuẩn.
2.500 năm kể từ Cyrus Đại đế, nhiều đế
chế hứa hẹn sẽ tạo dựng một nền trật tự chính trị thống nhất vì lợi ích chung của
loài người. Tất cả đều dối trá, và tất cả đều thất bại. Không có đế chế nào thực
sự thống nhất, và không có đế chế nào thực sự phục vụ lợi ích chung của tất cả
mọi người.
Tôn giáo
Cùng với tiền tệ và các đế chế, tôn giáo
cũng là đặc điểm thống nhất nhân loại. Vai trò lịch sử quan trọng của tôn giáo
là mang tới tính chính đáng siêu phàm cho những cấu trúc mong manh của các trật
tự xã hội và hệ thống phân cấp. Tôn giáo khẳng định rằng luật pháp của chúng ta
không phải là kết quả của sự thất thường nơi con người, mà được sắc phong bởi một
quyền lực tuyệt đối và tối thượng. Điều này giúp cho một số điều luật cơ bản vượt
lên mọi thách thức, do đó đảm bảo sự ổn định xã hội.
Tôn giáo có thể được định nghĩa là một hệ
thống các quy chuẩn và giá trị con người được xây dựng dựa trên niềm tin vào một
trật tự siêu nhiên. Tôn giáo có hai tiêu chí đặc trưng:
- Là
một hệ thống các giá trị và chuẩn mực, thay vì là một phong tục hay tín ngưỡng
riêng biệt.
- Để
được xem là một tôn giáo, hệ thống cần giá trị và chuẩn mực phải được tuyên bố
dựa trên các luật lệ siêu nhiên chứ không phải các quyết định của con người.
Một tôn giáo phải có ít nhất hai đặc tính:
- Nó phải tán thành một trật tự siêu nhiên phổ quát, luôn luôn đúng ở một thời điểm và không gian.
- Nó phải nhấn mạnh vào việc truyền bá niềm tin này đến tất cả mọi người.
Nói cách khác, nó phải mang tính phổ quát và truyền giáo.
Sự hình thành tôn giáo
Khi thuyết vật linh là hệ thống tín ngưỡng chủ đạo, những chuẩn mực và giá trị của con người phải cân nhắc đến cả thế giới quan và lợi ích của vô số chúng sinh khác, như động vật, thực vật, thần tiên và ma quỷ. Người săn bắt hái lượm coi những loài động vật hoang dã có địa vị bình đẳng với Homo Sapiens.
Nhưng Cách mạng Nông nghiệp đã biến cây trồng và vật nuôi từ vị thế là những thành viên bình đẳng trên bàn tròn tâm linh trở thành vật sở hữu. Trải qua hàng ngàn năm sau Cách mạng Nông nghiệp, nghi thức tế lễ chủ yếu bao gồm việc con người mang cừu, rượu vang và bánh ngọt hiến tế cho các thần linh, đổi lại các vị thần này hứa hẹn cho những vụ mùa bội thu và đàn gia súc mắn đẻ.
Nhưng khi các vương quốc và mạng lưới thương mại mở rộng, các vị thần linh địa phương không thể đáp ứng hết nhu cầu của con người, con người cần tiếp cận các thực thể có sức mạnh và uy quyền bao trùm toàn thể vương quốc hoặc toàn bộ lưu vực thương mại. Từ đó, xuất hiện các tôn giáo đa thần.
Những tôn giáo này hiểu rằng thế giới được điều khiển bởi một nhóm các vị thần đầy quyền năng, chẳng hạn như nữ thần sinh sản, thần mưa và thần chiến tranh. Con người có thể khẩn cầu các vị thần, sùng kính và hiến tế cho họ, thì họ rủ lòng ban cho mưa, chiến thắng và sức khỏe.
Thuyết vật linh cho rằng con người chỉ là một trong rất nhiều sinh vật sống trên thế giới. Trong khi đó, thuyết đa thần lại ngày càng nhìn nhận thế giới như là một sự phản ánh của mối quan hệ giữa thân linh và con người. Những lời cầu nguyện, những hy sinh, những tội lỗi và những việc thiện của chúng ta xác định số phận của toàn bộ hệ sinh thái. Đa thần giáo không chỉ tôn vinh vị thế của các vị thần, mà của cả nhân loại.
Theo thời gian, một số tín đồ đa thần giáo trở nên quá yêu mến một vị thần bảo hộ đặc biệt của họ tới mức ngày càng tách khỏi đa thần giáo cơ bản. Họ bắt đầu tin rằng vị thần của họ là vị thần duy nhất, Ngài là quyền lực tối cao của cả vũ trụ. Nhưng đồng thời họ vẫn tiếp tục xem Ngài là đấng có những vị lợi, thiên kiến riêng, và tin rằng họ có thể thỏa hiệp với Ngài. Chính điều đó đã sinh ra thuyết độc thần. Ví dụ như Ki-tô giáo, Hồi giáo.
Tín đồ độc thần giáo có xu hướng cuồng tín và truyền đạo hơn rất nhiều so với tín đồ đa thần giáo. Vì thường tin rằng chỉ có một Đấng Tối Cao mà thôi, nên tín đồ độc thần bị thôi thúc phải báng bổ tất cả các tôn giáo còn lại. Đa thần giáo về bản chất là cởi mở, và hiếm khi ngược đãi những kẻ “dị giáo” và “ngoại đạo”.
Đa thần giáo không chỉ sinh ra các tôn giáo độc thần, mà còn cả những tôn giáo nhị nguyên. Những tôn giáo nhị nguyên tán thành sự tồn tại của hai sức mạnh đối lập: thiện và ác. Nhị nguyên giải thích rằng toàn bộ vũ trụ là một chiến trường giữa hai lực lượng này, do đó tất cả những gì xảy ra trong thế giới này là một phần của cuộc đấu tranh. Một số tôn giáo nhị nguyên nổi tiếng là Bái hỏa giáo, Ngộ đạo giáo, Mani giáo.
Tất cả các tôn giáo có một đặc điểm quan trọng: đều tập trung đức tin vào thần linh và thực thể siêu nhiên khác. Tuy nhiên, lịch sử tôn giáo của thế giới không chỉ gói gọn vào lịch sử của thần linh. Trong thiên niên kỷ 1 TCN, các tôn giáo hoàn toàn mới bắt đầu lan rộng khắp Á – Phi. Phật giáo ở Ấn Độ, Đạo giáo và Nho giáo ở Trung Hoa, chủ nghĩa khắc kỷ, chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa hưởng lạc ở Địa Trung Hải, được đặc trưng bởi sự coi thường thần linh.
Những tín ngưỡng này cho rằng trật tự siêu nhiên chi phối thế giới là sản phẩm của các quy luật tự nhiên chứ không phải ý chí và ý tưởng của thần linh. Một ví dụ điển hình là Phật giáo. Nhân vật trung tâm của Phật giáo là thái tử Tất Đạt Đa.
Tất Đạt Đa khám phá ra rằng khi tâm trải nghiệm bất cứ điều gì, nó thường phản ứng với tham ái, mà tham ái luôn kéo theo sự bất mãn. Khi tâm trải nghiệm một cái gì đó khó chịu, nó khao khát thoát khỏi các day dứt và bực dọc. Khi tâm trải nghiệm một cái gì đó dễ chịu, nó khao khát rằng niềm vui sẽ vẫn duy trì và tăng thêm. Do đó, tâm luôn không hài lòng và bồn chồn.
Tất Đạt Đa thấy rằng để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này. Nếu khi tâm trải nghiệm một cái gì đó dễ chịu hay khó chịu, tâm chỉ đơn giản thấu hiểu sự vật như nó vốn vậy, thì sẽ không có đau khổ. Nếu bạn gặp nỗi buồn mà không mong nỗi buồn biến mất, bạn tiếp tục cảm thấy nỗi buồn nhưng bạn không đau khổ vì nó nữa. Nếu bạn từng trải qua niềm vui mà không muốn rằng niềm vui kéo dài và nhân lên nữa, bạn vẫn tiếp tục cảm thấy niềm vui mà không mất đi sự bình an trong tâm hồn.
Tất Đạt Đa phát triển một tập hợp kỹ thuật thiền định nhằm huấn luyện tâm trí tập trung tất cả sự chú ý của nó vào câu hỏi: “Tôi đang trải nghiệm điều gì vào lúc này?” hơn là vào câu hỏi “Tôi mong muốn được trải nghiệm gì?”.
Ông hướng dẫn đệ tử tránh sát sinh, không tà dâm và không trộm cắp, do những hành vi đó chắc chắn sẽ thổi bùng ngọn lửa tham ái. Khi ngọn lửa được dập tắt, tham ái được thay thế bởi một trạng thái mãn nguyện hoàn hảo và thanh thản, được gọi là niết bàn (nghĩa đen của từ đó là “dập lửa”). Những người đã đạt tới niết bàn sẽ được giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khổ đau. Một người không thèm muốn thì sẽ không phải chịu đau khổ.
Thời hiện đại đã chứng kiến sự nổi lên của một số tôn giáo mới theo quy luật tự nhiên, chẳng hạn như chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa phát xít. Những tín điều này không thích được gọi là tôn giáo, và tự coi chúng là những ý thức hệ. Nhưng đó chỉ là về mặt ngữ nghĩa mà thôi.
Kết phần 3
Mỗi giai đoạn trong lịch sử đều là một giao lộ. Từ quá khứ đến hiện tại chỉ có một con đường duy nhất, nhưng đến tương lai thì có vô số những ngả rẽ. Một số con đường to hơn, bằng phẳng hơn, được chỉ dẫn tốt hơn, và như thế có lẽ sẽ được nhiều người chọn hơn, nhưng đôi khi lịch sử - hoặc những người làm nên lịch sử - lại đi theo những ngả rẽ bất ngờ.
Lịch sử không thể được lý giải một cách tất định cũng như không thể dự đoán trước được, vì nó có tính hỗn độn.
Lịch sử không phải là phương tiện để đưa ra những dự đoán chính xác. Chúng ta nghiên cứu lịch sử không phải để biết tương lai, mà để mở rộng chân trời hiểu biết của mình, để hiểu rằng tình trạng hiện nay của chúng ta không phải do tự nhiên, cũng không phải do tất yếu, và kết quả là chúng ta có nhiều lựa chọn hơn mình tưởng.
Những lựa chọn của lịch sử đã không được quyết định vì lợi ích của con người. Không có bằng chứng nào cho thấy lịch sử đang vận hành vì lợi ích của con người. Chạy đua vũ trang là một ví dụ mà ai cũng biết. Nhiều cuộc đua vũ trang đã làm phá sản tất cả những người tham gia, mà không thực sự làm thay đổi được cán cân quyền lực quân sự.
Phần 4: Cách mạng Khoa học
500 năm qua đã chứng kiến một sự tăng trưởng phi thường và chưa từng có tiền lệ trong sức mạnh con người. Dân số đã tăng gấp 14 lần, sản xuất gấp 240 lần, tiêu thụ năng lượng gấp 115 lần, và ngày nay con người có thể đi vòng quanh thế giới một cách an toàn và dễ dàng chỉ trong vòng 48 giờ.
1674, con người phát minh ra kính hiển vi và thấy cả một thế giới vi sinh vật.
16/07/1945, các nhà khoa học Mỹ đã cho nổ quả bom nguyên tử đầu tiên tại Alamogordo, bang New Mexico. Từ thời điểm đó trở đi, loài người đã có khả năng không chỉ thay đổi tiến trình lịch sử, mà còn có thể kết thúc nó.
20/07/1969, con người đặt chân lên Mặt trăng.
- Cái giá của chiến tranh đã tăng lên đáng kể. Vũ khí hạt nhân đã
- Lợi nhuận của chiến tranh cũng đã giảm. Ngày xưa khi phát động chiến tranh thì có thể cướp tài sản hay chiếm đóng đất đai, nhưng ngày ngay sự giàu có chủ yếu đến từ nguồn nhân lực, kiến thức kỹ thuật và các cấu trúc kinh tế xã hội phức tạp như ngân hàng. Do đó rất khó để mang đi hoặc sáp nhập vào lãnh thổ nào đó.
- Hòa bình trở nên hấp dẫn hơn bao giờ hết, vì hòa bình mang lại lợi ích. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện đại, thương mại và đầu tư nước ngoài đã trở nên hết sức quan trọng.
- Một sự chuyển đổi khổng lồ đã diễn ra trong nền văn hóa chính trị toàn cầu. Giới tinh hoa trong lịch sử đều xem chiến tranh là một điều tích cực. Còn thời đại của chúng ta là lần đầu tiên trong lịch sử mà thế giới bị chi phối bởi giới tinh hoa yêu hòa bình - các chính trị gia, doanh nhân, trí thức và nghệ sĩ thực sự nhìn nhận chiến tranh như là cái ác và có thể tránh được.
- Kỹ thuật sinh học
- Kỹ thuật cyborg
- Kỹ thuật về sự sống vô cơ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét