Thứ Năm, 11 tháng 5, 2023

[Tóm tắt sách] Sapiens: Lược Sử Loài Người - Yuval Noah Harari

“Sapiens” - Lược sử về loài người là một quyển sách được viết cực kỳ công phu, tỉ mỉ, chứa đựng lượng kiến thức khổng lồ và bao quát lịch sử nhân loại trong 70.000 năm vừa qua. Cuốn sách lý giải vì sao loài Homo sapiens chúng ta chỉ là một loài rất yếu ớt và nhỏ bé nhưng lại có thể thống trị Trái Đất, và chúng ta sẽ cùng trăn trở với tác giả, rằng: trí thông minh nhân tạo (AI), công nghệ biến đổi gene, và các công nghệ khác sẽ thay đổi giống loài chúng ta ra sao, tương lai nào đang chờ đợi chúng ta.

“Sapiens” đưa chúng ta vào một chuyến đi kinh ngạc qua toàn bộ lịch sử loài người, từ những gốc rễ tiến hóa của nó đến thời đại của chủ nghĩa tư bản và kỹ thuật di truyền, để khám phá tại sao chúng ta đang trong những điều kiện sinh sống hiện tại. “Sapiens” tập trung vào các quá trình quan trọng đã định hình loài người và thế giới quanh nó, chẳng hạn như sự hình thành ngôn ngữ, chữ viết, sự ra đời của sản xuất nông nghiệp, việc tạo ra tiền, sự xuất hiện của những tôn giáo, sự nổi lên của những đế quốc, sự tiến bộ của khoa học.

Yuval Noah Harari, sinh năm 1976, là nhà nghiên cứu lịch sử người Israel. Ông nhận bằng Tiến sĩ của Đại học Oxford năm 2002, hiện là giảng viên Khoa Lịch sử, Đại học Hebrew ở Jerusalem. Ông chuyên nghiên cứu về lịch sử thế giới, lịch sử thời Trung cổ và lịch sử quân sự. Ông cũng hướng tới nghiên cứu những vấn đề lớn mang tính khái quát về mối quan hệ giữa lịch sử và sinh học. Hai cuốn sách nổi bật nhất của ông là Homo Deus: A Brief History of Tomorrow (2016), và Sapiens: A Brief History of Humankind (2014).

Đọc cuốn sách này giúp chúng ta mở mang tầm nhìn và kiến thức về lịch sử, văn hóa, xã hội, kinh tế. Có những chương hơi khô khan và khó tiếp thu, nhưng còn lại thì phần lớn cuốn sách là những kiến thức thú vị cuốn hút chúng ta đọc mãi không ngừng được. Thật sự là thời gian 2 tháng mình bỏ ra để đọc cuốn sách này không hề lãng phí một chút nào. Mình đã được nạp vào não một lượng kiến thức khổng lồ vừa tổng quan vừa chi tiết về lịch sử của loài người, hiểu được cách xã hội này đã và đang vận hành như thế nào.

Và hôm nay mình sẽ tóm tắt lại cho các bạn toàn bộ nội dung bổ ích của cuốn sách “Sapiens”.

Phần 1: Cách mạng nhận thức

Có 3 cuộc cách mạng quan trọng định hình tiến trình lịch sử: Cách mạng Nhận thức, Cách mạng Nông nghiệp, Cách mạng Khoa học. Cuốn sách này kể câu chuyện về việc ba cuộc cách mạng đó đã tác động đến loài người và những sinh vật cùng sống với họ ra sao.

★★

Các nhà sinh học phân chia sinh vật thành các loài. Động vật được cho là cùng loài nếu chúng có xu hướng giao phối với nhau, sinh con hữu thụ. 

Các loài tiến hóa từ một tổ tiên chung được tập hợp lại thành một chi. Chúng ta thuộc về Homo sapiens - loài sapiens (tinh khôn) của chi Homo (người).

Các chi được nhóm thành các họ. 

Homo sapiens thuộc về cùng một họ.

Ý nghĩa thực sự của từ "Con người" là "một con vật thuộc chi Homo", và trong chi này từng tồn tại nhiều loài khác bên cạnh Homo sapiens, ví dụ như Homo rudolfensis (Đông Phi), Homo erectus (Đông Á), Homo neanderthalensis (Châu Âu & Tây Á). Trong cuốn sách này, tác giả sử dụng thuật ngữ "Sapiens" để chỉ các thành viên của loài Homo sapiens (tức chúng ta), và dành riêng thuật ngữ "Con người" để chỉ tất cả các thành viên còn lại của chi Homo.

Một quan niệm sai lầm phổ biến là cho rằng các loài này đã được sắp xếp theo trực hệ: ergaster tiến hóa thành erectus, erectus tiến hóa thành Neanderthal, Neanderthal tiến hóa thành chúng ta. Mô hình tuyến tính này tạo ra sự nhầm lẫn rằng tại bất kỳ thời điểm này cũng chỉ có một loài người trên trái đất, và rằng tất cả các loài trước đó là những phiên bản lỗi thời của chúng ta. Sự thật là từ khoảng 2 triệu cho đến khoảng 10.000 năm trở lại đây, tại cùng một thời điểm, thế giới là ngôi nhà của một số loài người.

Cái giá của tư duy

Con người có bộ não cực lớn so với các loài động vật khác. Bộ não người tối cổ khoảng 600 cm3.. Bộ não trung bình của Sapiens hiện đại khoảng 1200 - 1400 cm3

Bộ não chiếm khoảng 2-3% trọng lượng cơ thể nhưng sử dụng tới 25% năng lượng của cơ thể khi cơ thể ở trạng thái nghỉ ngơi. Người cổ đại phải trả giá cho bộ não lớn theo 2 cách: Mất nhiều thời gian hơn để tìm thức ăn, và cơ bắp bị teo lại.

Một điểm riêng biệt nữa là con người đứng thẳng trên hai chân. Đứng thẳng giúp chúng ta dễ phát hiện kẻ thù hơn, bàn tay được tự do nên đã tiến hóa để có thể thực hiện các nhiệm vụ rất phức tạp như chế tác và sử dụng các công cụ tinh vi. Nhưng loài người đã phải trả giá cho việc có được tầm nhìn cao và bàn tay khéo léo bằng các bệnh đau lưng và vôi hóa đốt sống cổ. 

Dáng đi thẳng làm cho hông hẹp lại, chèn ép đường sinh nở của phụ nữ trong khi đầu của trẻ sơ sinh ngày càng lớn hơn, điều này khiến phụ nữ dễ chết khi sinh con. Do đó, chọn lọc tự nhiên ủng hộ việc sinh non, khi não và đầu của trẻ sơ sinh vẫn còn tương đối nhỏ và mềm. Nhưng vì con người được sinh sớm, nhiều bộ phận quan trọng vẫn còn chưa phát triển, nên trẻ sơ sinh phải phụ thuộc nhiều năm vào bố mẹ để nhận sự nuôi dưỡng, bảo vệ và giáo dục, trong khi một con ngựa con có thể đứng dậy ngay sau khi được sinh ra, một con mèo con có thể tự kiếm ăn khi chỉ mới một vài tuần tuổi.

Nuôi con đòi hỏi sự giúp đỡ liên tục từ các thành viên khác trong gia đình và hàng xóm. Cả một bộ tộc phải cùng chung sức nuôi dưỡng một con người. Do đó, tiến hóa ủng hộ những ai có thể hình thành các mối quan hệ xã hội chặt chẽ. Ngoài ra, do con người được sinh ra khi chưa phát triển hoàn thiện, nên họ có thể được giáo dục và xã hội hóa ở một mức độ lớn hơn nhiều so với bất kỳ động vật nào.

Chỉ trong 100.000 năm vừa qua, với sự gia tăng của Homo sapiens, con người nhảy lên đứng đầu chuỗi thức ăn. Bước nhảy vọt ngoạn mục từ vị trí giữa lên đầu chuỗi thức ăn mang đến những hệ quả to lớn. Loài người lên đỉnh chuỗi thức ăn nhanh tới mức các hệ sinh thái không có thời gian để điều chỉnh và cân bằng, con người cũng thất bại trong việc tự điều chỉnh. Thực chất, con người vẫn ở thế yếu trên đồng cỏ. Chúng ta sợ hãi và lo lắng về vị trí của mình, điều đó khiến cho chúng ta độc ác và nguy hiểm gấp đôi. Nhiều tai ương trong lịch sử, từ các cuộc chiến tranh đến những thảm họa sinh thái, đều là hậu quả của bước nhảy vọt tiến hóa quá vội vàng này. 

Một giống loài biết nấu nướng

Một bước quan trọng trên con đường tới đỉnh là sự thuần hóa lửa. Lửa giúp con người nấu chín thức ăn. Sự xuất hiện của việc nấu nướng cho phép con người ăn được nhiều loại thức ăn, tốn ít thời gian cho chuyện ăn uống, khiến răng trở nên nhỏ hơn còn ruột thì ngắn hơn. Khi con người thuần hóa được lửa, họ đã kiểm soát được một sức mạnh có tiềm năng vô hạn và dễ sai khiến. 

Các anh em của chúng ta 

Trong 70.000 năm, Sapiens đã từ Đông Phi lan sang Ả-rập, Châu Á, Châu Âu, hễ Sapiens đặt chân đến một nơi mới thì chẳng bao lâu sau cư dân bản địa sẽ bị tuyệt chủng. 

Bí mật của Sapiens là gì? Làm thế nào chúng ta đẩy được tất cả loài người khác vào quên lãng?

Câu trả lời là: Homo Sapiens chinh phục thế giới nhờ ngôn ngữ độc đáo của mình.

Cách mạng Nhận thức

Những cách suy nghĩ và giao tiếp mới xuất hiện trong thời kỳ cách đây 70.000 - 30.000 năm trước đã tạo nên Cách mạng Nhận thức. 

Ngôn ngữ của chúng ta linh hoạt một cách kinh ngạc. Chúng ta có thể kết nối một số nhất định các âm thanh và dấu hiệu để tạo nên vô số câu, mỗi câu lại có ý nghĩa riêng biệt. Do đó chúng ta có thể hấp thu, lưu trữ và truyền đạt một lượng thông tin khổng lồ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ của chúng ta là một phương tiện để chia sẻ thông tin về thế giới. 

Ngôn ngữ của chúng ta phát triển như là một cách để tán gẫu. Các kỹ năng ngôn ngữ mới cho phép Sapiens tán gẫu nhiều giờ liền. Nhờ có được thông tin xác thực về thành viên đáng tin cậy mà những bầy nhỏ có thể mở rộng thành những bầy lớn hơn, và Sapiens có thể phát triển sự hợp tác chặt chẽ và tinh vi hơn. 

Đặc điểm độc đáo nhất trong ngôn ngữ của chúng ta là khả năng truyền tải thông tin về những thứ không tồn tại. Chỉ Sapiens mới có thể nói về mọi thứ mà họ chưa bao giờ thấy, chạm vào hoặc ngửi mùi. Chỉ Homo sapiens mới có thể nói về những điều không thực sự tồn tại, những điều hư cấu.

Hư cấu không chỉ giúp chúng ta tưởng tượng, mà còn tưởng tượng cùng nhau. Chúng ta có thể thêu dệt những huyền thoại phổ biến như câu chuyện sáng thế, những huyền thoại dân tộc của các quốc gia hiện đại. Những huyền thoại như vậy mang lại cho Sapiens khả năng hợp tác linh hoạt với vô số người xa lạ. 

Bất kỳ sự hợp tác nào của con người ở quy mô lớn đều bắt nguồn từ những huyền thoại phổ biến vốn chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng tập thể của nhân dân. Giáo hội bắt nguồn từ những huyền thoại tôn giáo chung. Các quốc gia bắt nguồn từ những huyền thoại chung về dân tộc. Hệ thống tư pháp bắt nguồn từ những huyền thoại chung về luật pháp. 

Theo năm tháng, con người đã thêu dệt nên một mạng lưới những câu chuyện phức tạp khó tin. Những thứ con người tạo ra thông qua mạng lưới các câu chuyện này được biết đến là "hư cấu", "cấu trúc xã hội", "thực tế tưởng tượng". 

Một thực tế tưởng tượng là điều mà mọi người đều tin vào, chừng nào niềm tin cộng đồng này còn tồn tại, thì chừng đó thực tế tưởng tượng còn thể hiện sức mạnh lên thế giới. 

Kể từ Cách mạng Nhận thức, Sapiens đã sống trong một thực tế kép. Một mặt là thực tế khách quan về các dòng sông, cây cối, sư tử, và mặt khác là thực tế tưởng tượng của các vị thần, quốc gia, công ty. 

Bỏ qua bộ gen

Khả năng tạo ra một thực tế tưởng tượng bằng từ ngữ cho phép vô số người lạ hợp tác hiệu quả. Homo Sapiens đã sớm vượt xa tất cả các loài người và động vật khác về khả năng hợp tác của mình.

Các thay đổi trong mô hình xã hội, sự phát minh ra công nghệ mới, sự định cư trong các môi trường sống xa lạ là kết quả của đột biến gen và áp lực môi trường. Phải mất hàng triệu năm để con người thực hiện các bước trên. Nhưng kể từ Cách mạng Nhận thức, Sapiens đã có thể thay đổi hành vi của họ một cách nhanh chóng mà không cần bất kỳ sự thay đổi di truyền hoặc môi trường nào. 

Trong khi các mô hình hành vi của con người cổ xưa vẫn cố định trong hàng chục ngàn năm, thì Sapiens đã có thể biến đổi cấu trúc xã hội của mình, bản chất các mối quan hệ giữa các cá nhân, hoạt động kinh tế và một loạt các hành vi khác chỉ trong vòng một hoặc hai thập kỷ. 

Một xã hội nguyên thủy giàu có

Một người cổ đại trung bình có nền tảng kiến thức rộng hơn, sâu hơn và hiểu biết đa dạng về môi trường xung quanh hơn. Chẳng hạn như hiểu biết về quá trình phát triển của từng loại cây và các thói quen của mỗi loài vật. Biết những loại thực phẩm nào ăn được, loại nào độc hại và loại nào dùng để chữa bệnh. Biết chế tác công cụ, biết cách đối mặt với tuyết lở, rắn cắn hoặc sư tử đói. Sống sót trong thời đại đó đòi hỏi mỗi cá nhân phải có năng lực trí tuệ siêu phàm. 

Người cổ đại còn làm chủ cả thế giới bên trong cơ thể và các giác quan của chính mình. Họ lắng nghe những chuyển động nhỏ nhất trong đám cỏ để xem liệu có một con rắn đang ẩn náu ở đó hay không. Họ di chuyển tốn ít sức lực nhất và gây ít tiếng ồn nhất. Họ có nền tảng thể chất mà con người ngày nay không thể đạt được.

Về tổng thể, người cổ đại dường như đã tận hưởng một cuộc sống thoải mái hơn và thú vị hơn hầu hết các nông dân, người chăn nuôi gia sức, người lao động và nhân viên văn phòng. Người cổ đại còn vui vẻ với lượng công việc nội trợ nhẹ nhàng hơn. Họ không có bát đũa để rửa, không có thảm để hút bụi, không có sàn nhà để đánh bóng, không có tã lót để thay và không có hóa đơn để thanh toán.

Chế độ dinh dưỡng của những người hái lượm cổ xưa khiến họ cao hơn và khỏe mạnh hơn con cháu nông dân của họ sau này. Bí mật nằm ở chế độ ăn uống đa dạng của họ. Người cổ đại thường xuyên ăn hàng chục loại thực phẩm khác nhau: hoa quả, nấm, trái cây, ốc sên và rùa, thị thỏ nướng và hành tây dại. Thực đơn ngày mai có thể hoàn toàn khác. Còn người hiện đại chỉ ăn lúa mì, khoai tây, gạo, bị thiếu một số vitamin và khoáng chất cần thiết cho con người. 

Người hái lượm cổ đại cũng ít chịu các bệnh truyền nhiễm. Vì hầu hết các bệnh truyền nhiễm được sản sinh ra từ xã hội nông nghiệp và công nghiệp có nguồn gốc từ động vật được thuần hóa và truyền bệnh cho con người. Mọi người sống trong những khu định cư lâu dài đông đúc, mất vệ sinh, là các hang ổ lý tưởng cho dịch bệnh.

Thủ phạm của các vụ tuyệt chủng

Trong phần này, tác giả đưa ra các chứng cứ chứng minh Sapiens là thủ phạm của các vụ tuyệt chủng hàng loạt ở châu Úc, châu Mỹ, Á-Phi, Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Bắc cực và Địa Trung Hải. Sapiens đã gây ra những thảm họa sinh thái lớn nhất và nhanh nhất ập đến thế giới động vật, từ các loài động vật kích thước khổng lồ, đến các quần thể độc nhất vô nhị các loài thú, hàng trăm loài chim, côn trùng, ốc sên, và những cư dân địa phương khác.

Làn sóng tuyệt chủng Thứ nhất, đi cùng với sự xuất hiện rộng khắp của người hái lượm, đã được tiếp nối bằng Làn sóng Tuyệt chủng Thứ hai, kèm theo sự có mặt khắp nơi của nông dân, Làn sóng Tuyệt chủng Thứ ba do các hoạt động công nghiệp ngày nay gây ra. Chúng ta nổi tiếng mờ ám như một loài sinh vật giết chóc nhất trong biên niên sử sinh học. 

Phần 2: Cách mạng Nông nghiệp

Sự lừa dối lớn nhất lịch sử

Ở bất cứ nơi nào Sapiens đến, họ cũng đều tiếp tục hái lượm thực vật mọc hoang và săn bắt động vật hoang dã. Lối sống này khiến họ no đủ và giúp phát triển một thế giới phong phú của những cấu trúc xã hội, tín ngưỡng tôn giáo và động lực chính trị.

Nhưng tất cả những điều này đã thay đổi cách đây khoảng 10.000 năm, khi Sapiens bắt đầu dành hầu hết thời gian và nỗ lực của mình nhằm thao túng cuộc sống của một số loài động thực vật. Từ sáng sớm cho đến lúc hoàng hôn, con người gieo hạt, tưới nước cho cây, nhổ cỏ dại, và lùa cừu tới những đồng cỏ tươi tốt. Họ nghĩ rằng việc này sẽ cung cấp cho mình thêm nhiều trái cây, ngũ cốc và thịt. Đó là cuộc Cách mạng Nông nghiệp.

Thay vì báo hiệu cho một kỷ nguyên mới dễ sống, Cách mạng Nông nghiệp lại đem tới cho nông dân cuộc sống có vẻ khó khăn hơn và ít thỏa mãn hơn so với người hái lượm. Cách mạng Nông nghiệp tất nhiên đã làm tăng tổng lượng thức ăn dự trữ của loài người, nhưng nhiều thức ăn không có nghĩa là có một chế độ ăn tốt hơn. Nó biến thành những đợt bùng nổ dân số và tạo ra giới tinh hoa được nuông chiều. Những nông dân bình thường phải làm việc vất vả hơn những kẻ hái lượm bình thường mà lại cái chế độ ăn uống tồi hơn. Cách mạng Nông nghiệp là sự lừa dối lớn nhất của lịch sử.

Cơ thể của Homo Sapiens không được tiến hóa cho những nhiệm vụ như dọn dẹp các cánh đồng, trông chừng lúa khỏi bị hư hại bởi thỏ hay châu chấu, diệt trừ sâu bệnh và rệp, rẫy cỏ, tưới nước, bón phân,... Cơ thể của Homo Sapiens thích nghi với việc trèo lên cây hoặc đuổi theo những con thú, chứ không phải để dọn sạch đất đá hay xách những thùng nước. Xương sống, đầu gối, cổ và xương sườn của con người đã phải trả giá. Chuyển sang làm nông nghiệp dường như đã mang đến rất nhiều bệnh tật như trẹo khớp, viêm khớp và sa ruột. Những công việc làm nông đòi hỏi rất nhiều thời gian nên con người buộc phải định cư lâu dài gần cánh đồng lúa mì của mình. Điều này đã thay đổi hoàn toàn lối sống của họ. 

Con người là một loài vượn ăn tạp, phát triển mạnh nhờ việc ăn đủ loại thức ăn. Ngũ cốc chỉ là một phần rất nhỏ trong chế độ ăn uống của con người trước Cách mạng Nông nghiệp. Một chế độ ăn uống chỉ dựa vào ngũ cốc thì rất nghèo vitamin và khoáng chất, khó tiêu hóa, thực sự không tốt cho răng và lợi của bạn.

Lúa mì không mang lại an toàn lương thực cho con người. Cuộc sống của người nông dân kém an toàn hơn cuộc sống của kẻ săn bắt hái lượm. Nếu không có mưa, hoặc có những đám mây châu chấu bay đến, hoặc có một loại nấm ký sinh gây bệnh cho lúa mì, khoai tây hoặc lúa, hàng ngàn hàng triệu nông dân sẽ chết đói.

Lúa mì cũng không thể bảo vệ con người trước bạo lực. Nếu một bầy hái lượm bị các đối thủ mạnh hơn chèn ép, họ chỉ đơn giản bỏ đi. Nhưng nếu một kẻ thù mạnh đe dọa một làng nông nghiệp, thì rút lui có nghĩa là phải bỏ lại ruộng đồng, nhà cửa, kho lương thực. Vì vậy, nông dân có khuynh hướng ở lại và chiến đấu đến cùng.

Cái bẫy xa xỉ

Cùng với việc chuyển thành những ngôi làng định cư và nguồn cung thực phẩm tăng lên, dân số cũng bắt đầu gia tăng. Những đứa trẻ được cai sữa từ rất sớm, được cho ăn cháo và bột nấu lỏng. Rất cần thêm những bàn tay phụ giúp trên ruộng đồng. Nhưng những miệng ăn nhanh chóng ngốn hết lượng thực phẩm dư, nên phải mở rộng thêm đồng ruộng để trồng trọt. Vì con người bắt đầu sinh sống ở những khu định cư đầy mầm bệnh, vì trẻ con được cho ăn nhiều ngũ cốc hơn và ít sữa mẹ hơn, và vì mỗi đứa trẻ phải giành giật cháo với anh chị em của mình, nên tỷ lệ tử vong ở trẻ em cũng tăng vọt. 

Trẻ em chết lũ lượt, còn người lớn thì ăn thứ bánh mì phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được. Khi các kho lương thực của nông dân bị trộm cắp, họ bắt buộc phải xây tường bảo vệ và canh gác chúng. Họ sống cực khổ hơn tổ tiên của mình. 

Việc mưu cầu một cuộc sống dễ chịu hơn đã dẫn đến nhiều thử thách cam go hơn cho chính chúng ta hôm nay. Chúng ta tốt nghiệp và chấp nhận làm những công việc căng thẳng để kiếm tiền, mong rằng có thể về hưu và theo đuổi những công việc chúng ta thực sự yêu thích ở tuổi 35. Nhưng theo thời gian và đến tuổi đó, ta lại có nhiều giấy vay nợ, những đứa con đi học, những nhu cầu vật chất cao hơn. Chúng ta sẽ phải nỗ lực gấp đôi và làm việc như nô lệ. 

Trong một vài thế kỷ gần đây, chúng ta đã phát minh ra vô số thiết bị để tiết kiệm thời gian: máy giặt, máy hút bụi, máy rửa bát, điện thoại, điện thoại di động, máy vi tính, email. Nhưng chúng ta có thực sự đang sống một cuộc đời thảnh thơi hơn hay không? Chúng ta nghĩ rằng mình đang tiết kiệm thời gian, nhưng thực chất chúng ta tăng tốc guồng quay cuộc sống lên chục lần so với tốc độ trước đây, làm cho những ngày làm việc của mình trở nên đầy lo âu và bối rối.

Những nạn nhân của Cách mạng

Theo góc nhìn tiến hóa, thành công là sự gia tăng số lượng bản sao DNA, thì Cách mạng Nông nghiệp là ân huệ tuyệt vời cho gà, gia súc, lợn và cừu.

Nhưng góc nhìn tiến hóa là một đánh giá không hoàn chỉnh về sự thành công. Nó phán xét mọi thứ bằng tiêu chuẩn về sống sót và sinh sản mà không quan tâm đến nỗi đau khổ hay niềm hạnh phúc của mỗi cá thể. Gà và gia súc thuần hóa có thể là một câu chuyện tiến hóa thành công, nhưng chúng là những sinh vật khốn khổ nhất từng tồn tại. Thuần hóa động vật được dựa trên các biện pháp tàn bạo nhất và ngày càng trở nên độc ác hơn. 

Các loài động vật thuần hóa sẽ bị giảm tuổi thọ so với khi sống trong môi trường hoang dã. Chúng bị nô dịch hóa trong một cuộc sống hoàn toàn xa lạ với những nhu cầu và khát vọng của chúng. Chúng bị phá vỡ các bản năng tự nhiên, phải kìm lại tính hung hăng và bản năng tình dục, bị tước đi sự tự do di chuyển. Đối với đại đa số các loài vật đã thuần hóa, Cách mạng Nông nghiệp là một thảm họa tồi tệ.

Để hiểu rõ hơn về sự tồi tệ này đối với động vật, bạn có thể tham khảo cuốn sách "Thức ăn vì thế giới hòa bình" mình đã từng tóm tắt và review [Link]

Sự xuất hiện của tương lai

Cách mạng Nông nghiệp là một bước ngoặt nơi mà con người vứt bỏ mối quan hệ cộng sinh mật thiết với tự nhiên, trở nên tham lam và tha hóa. Nông nghiệp đã làm cho dân số tăng lên triệt để và nhanh chóng. Một nông dân thường phát sinh sự gắn bó mật thiết với cánh đồng hoặc vườn cây của mình. Từ đó, sự gắn bó với "nhà của tôi" và sự tách biệt với những người hàng xóm trở thành dấu hiệu tâm lý của loài sinh vật tự lấy mình làm trung tâm.

Người hái lượm không tính đến tương lai, nhưng điều này giúp họ bớt lo âu khá nhiều. Cách mạng Nông nghiệp đã làm cho tương lai xa trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nông dân luôn giữ tương lai ở trong đầu và phải làm việc để phục vụ nó. Mặc dù có đủ thức ăn cho hôm nay, tuần tới, và kể cả tháng tới, nhưng họ vẫn phải lo lắng về năm sau và năm sau nữa.

Nhưng thật đáng buồn, người nông dân cần cù hầu như không bao giờ đạt tới sự đảm bảo về kinh tế trong tương lai mà họ rất khao khát có được qua việc lao động cực nhọc ở hiện tại. Ở khắp nơi, những kẻ cai trị và giới tinh hoa xuất hiện, sống bằng thực phẩm dư thừa của nông dân và bỏ mặc họ với cuộc sống nghèo nàn.

Một trật tự tưởng tượng

Con người bắt đầu tập hợp thành các thành phố, các vương quốc và mạng lưới thương mại mới. Để đảm bảo rằng họ có thể thống nhất với nhau về việc phân chia đất đai hay nguồn nước, cũng như làm thế nào để xoa dịu các cuộc tranh luận hoặc xung đột, và làm gì trong thời kỳ hạn hán hoặc chiến tranh, con người đã sáng tạo các câu chuyện về các vị thần vĩ đại, đất mẹ và công ty cổ phần để cung cấp những mối liên kết xã hội cần thiết. Như đã đề cập ở phần 1, con người hợp tác được là nhờ những huyền thoại chung giữa họ. Tất cả các quy tắc xã hội cũng dựa trên niềm tin vào những huyền thoại chung. 

Chúng ta tin vào một trật tự riêng biệt không phải vì nó là một sự thật khách quan, mà bởi tin vào nó sẽ làm chúng ta có thể hợp tác hiệu quả và tạo nên một xã hội tốt đẹp hơn. 

Một trật tự tưởng tượng được giữ vững bằng những người thực sự tin tưởng vào trật tự đó. Một trật tự tưởng tượng chỉ có thể được duy trì nếu phần lớn dân chúng, đặc biệt là phần đông giới tinh hoa và lực lượng an ninh thực sự tin vào nó. Nền dân chủ của Mỹ sẽ không thể kéo dài 250 năm nếu như đa số các tổng thống và nghị sĩ không còn tin vào nhân quyền. Hệ thống kinh tế hiện đại sẽ không thể tồn tại nếu phần lớn các nhà đầu tư và chủ ngân hàng không còn tin vào chủ nghĩa tư bản.

Chữ viết

Các đế chế tạo ra những lượng thông tin khổng lồ: luật pháp, các tài khoản giao dịch và các loại thuế, bản kiểm kê vật tư quân đội và các tàu buôn lớn, lịch của các lễ hội và chiến thắng. Trong hàng triệu năm, con người chưa thông tin ở một nơi duy nhất - bộ óc của mình. Nhưng bộ óc con người không phải là một thiết bị lưu trữ tốt. Năng lực của bộ não có giới hạn. Khi con người chết đi, bộ óc của họ cũng chết theo, thông tin chứa trong bộ óc đó cũng sẽ bị xóa sạch. 

Khi những xã hội đặc biệt phức tạp bắt đầu xuất hiện, một dạng thông tin mới hoàn toàn bắt đầu trở nên quan trọng - những con số. Để duy trì một vương quốc rộng lớn, các dữ liệu toán học rất quan trọng. Các vương quốc cần phải thu thuế, thu thập số liệu về thu nhập và tài sản của từng người, số liệu về những khoản thanh toán, số liệu về số nợ còn khất lại, số tiền vay chưa trả và tiền phạt, số liệu về phần tiền được giảm giá và miễn thuế. 

Thời kỳ 3500-3000 TCN, người Sumer cổ đại (sống ở phía nam Lưỡng Hà) đã phát minh ra một hệ thống để lưu giữ và xử lý thông tin bên ngoài bộ não của họ, đó là chữ viết.

Không có công lý trong lịch sử

Con người có thể tổ chức mình trong những mạng lưới hợp tác đại chúng là vì con người đã sáng tạo ra các trật tự tưởng tượng và các kiểu chữ viết. Hai phát minh này đã lấp đầy những khoảng trống mà sự kế thừa sinh học của chúng ta để lại.

Những trật tự tưởng tượng duy trì những mạng lưới này không trung lập và cũng không công bằng. Chúng phân chia con người thành những nhóm không có thật, sắp xếp họ và một hệ thống phân tầng. Ví dụ như người tự do và nô lệ, người da trắng và người da đen, người giàu và người nghèo, quý tộc và bình dân.

Hầu hết các hệ thống phân tầng chính trị xã hội đều thiếu một nền tảng logic hay sinh học cơ bản - chúng chẳng là gì ngoài việc duy trì các sự kiện tình cờ, được hỗ trợ bởi những huyền thoại. Sự phân biệt về mặt sinh học giữa những nhóm Homo Sapiens khác nhau là không đáng kể trong thực tế, nên sinh học không thể giải thích được những sự phức tạp của xã hội Ấn Độ hoặc những động cơ kỳ thị chủng tộc của người Mỹ. Chúng ta chỉ có thể hiểu được những sự kiện trên bằng cách nghiên cứu các sự kiện, sự việc và mối quan hệ quyền lực đã biến những điều bịa đặt của trí tưởng tượng thành những cấu trúc xã hội tàn nhẫn và rất thực tế.

Sự phân tầng nam - nữ

Con người ở tất cả mọi nơi tự phân chia bản thân họ thành đàn ông và đàn bà. Và ở mọi nơi, hầu hết đàn ông đều được đối xử tốt hơn, ít nhất là từ sau Cách mạng Nông nghiệp.

Một số bất bình đẳng văn hóa, pháp luật và chính trị giữa đàn ông và đàn bà phản ánh sự khác nhau sinh học hiển nhiên giữa các giới. Nhưng mỗi xã hội đều có các quan điểm và quy tắc văn hóa, có rất ít liên quan về mặt sinh học. Các xã hội liên kết một loạt các thuộc tính với nam tính và nữ tính, hầu hết chúng đều thiếu một nền tảng sinh học vững chắc.

Mẹ Thiên nhiên không quan tâm nếu những người đàn ông cảm thấy hấp dẫn tình dục với nhau. Chỉ có những người mẹ của loài người sẽ gây chuyện cãi lộn nếu con trai mình phải lòng cậu hàng xóm. Sinh học sẵn sàng chấp nhận một phạm vi rất rộng các khả năng có thể xảy ra. Chính văn hóa mới cưỡng ép con người nhận thức một số khả năng trong khi lại cấm đoán những khả năng khác.

Văn hóa thường nói rằng nó chỉ cấm những cái không tự nhiên. Nhưng từ quan điểm sinh học, không có gì là không tự nhiên. Bất cứ cái gì có thể xảy ra, theo định nghĩa đều là tự nhiên. 

Sự thật là những định nghĩa của chúng ta về "tự nhiên" và "không tự nhiên" không dựa trên khía cạnh sinh học, mà từ thần học. Ý nghĩa của "tự nhiên" theo thần học là "tuân theo những ý muốn của Chúa, người đã tạo ra tự nhiên". Nếu chúng ta sử dụng cơ thể khác với mục đích của Chúa, thì điều này là không tự nhiên. Nhưng tiến hóa không có mục đích. Những cơ quan cơ thể không tiến hóa vì một mục đích nào cả và cách sử dụng chúng được thay đổi liên tục. Các cơ quan tiến hóa để thực hiện một chức năng riêng biệt, nhưng một khi đã tồn tại, chúng có thể được dùng cho những cách khác nữa.

Tình dục và giới tính

Hầu hết các bộ luật, các quy tắc, các quyền và nghĩa vụ để xác định nam tính và nữ tính phản ánh trí tưởng tượng của con người là một thực tế sinh học.

Về mặt sinh học, con người chia ra thành giống đực và giống cái. Một giống đực Homo Sapiens là một người có một nhiễm sắc thể X và một nhiễm sắc thể Y; một giống cái là người có hai nhiễm sắc thể XX. Nhưng cái tên “đàn ông” và “đàn bà” là các phạm trù xã hội, không phải sinh học. Những huyền thoại đã xác định vai trò, quyền và nghĩa vụ của người đàn ông và người đàn bà, nên ý nghĩa của cụm từ “nam tính” và “nữ tính” đã thay đổi vô cùng từ xã hội này sang xã hội khác.

Phần 3: Sự thống nhất của loài người

Mũi tên lịch sử

Sau Cách mạng Nông nghiệp, xã hội loài người phát triển rộng lớn hơn và phức tạp hơn, trong khi những cấu trúc tưởng tượng để duy trì trật tự xã hội cũng trở nên tinh vi hơn. Con người đã tạo ra những bản năng nhân tạo, làm cho hàng triệu người xa lạ có thể hợp tác hiệu quả. Mạng lưới những bản năng nhân tạo này được gọi là “văn hóa”.

Mỗi nền văn hóa đều có những niềm tin, tiêu chuẩn và giá trị đặc thù, nhưng chúng thay đổi liên tục. Nền văn hóa có thể biến đổi mình để đối phó lại với những thay đổi trong môi trường của nó hoặc qua sự tương tác với các nền văn hóa láng giềng. Nhưng các nền văn hóa cũng trải qua sự thay đổi do những động lực bên trong chúng.

Không giống như các định luật vật lý vốn tránh được các mâu thuẫn, mỗi trật tự nhân tạo đều hàm chứa những mâu thuẫn nội bộ. Ví dụ là về trật tự chính trị hiện đại. Kể từ Cách mạng Pháp, con người trên toàn thế giới đã dần nhìn nhận bình đẳng và tự do cá nhân như những giá trị cơ bản. Song, hai giá trị này lại mâu thuẫn nhau. Bình đẳng chỉ có thể được đảm bảo bằng việc giảm bớt tự do của những cá nhân xuất sắc hơn. Đảm bảo rằng mỗi cá nhân sẽ được tự do làm điều mình mong muốn chắc chắn sẽ hạn chế bình đẳng. Ở Mỹ, Đảng Dân chủ mong muốn một xã hội bình đẳng hơn, dù có phải tăng thuế để tài trợ cho các chương trình giúp đỡ người nghèo, già yếu và ốm đau. Nhưng điều này đã xâm phạm đến tự do của các cá nhân trong việc sử dụng tiền của mình như họ muốn. Còn Đảng Cộng hòa thì muốn tối đa hóa tự do cá nhân, dù rằng khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo sẽ ngày càng lớn hơn.

Những mâu thuẫn như vậy là một phần không thể tách rời trong mỗi nền văn hóa của con người. Trên thực tế, chúng là những động cơ của sự phát triển văn hóa, là nguyên nhân cho óc sáng tạo và tính năng động của loài người chúng ta. Các mâu thuẫn trong những suy nghĩ, ý tưởng và giá trị đã buộc chúng ta phải suy nghĩ, tái đánh giá và phê bình.

Văn hóa của con người biến đổi không ngừng. Lịch sử đang di chuyển không ngừng theo hướng thống nhất. Sau hàng thiên niên kỷ, những nền văn hóa nhỏ bé và đơn giản dần dần hợp nhất thành một nền văn minh lớn hơn và phức tạp hơn.

Ngày nay, hầu hết loài người chia sẻ cùng một hệ thống địa chính trị, kinh tế, pháp luật, khoa học.

Tiền

Ở thời săn bắt hái lượm, các bầy người chia sẻ hàng hóa và dịch vụ của mình thông qua một hệ thống kinh tế dựa trên sự chịu ơn và trả ơn. Một miếng thịt được tặng miễn phí có thể được đổi lại bằng sự giúp đỡ về mặt ý tế.

Vào thời điểm nổ ra Cách mạng Nông nghiệp, con người vẫn theo kinh tế tự cung tự cấp, được duy trì bởi việc chịu ơn và trả ơn lẫn nhau.

Sự ra đời của các thành phố và vương quốc, cũng như việc cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông, đã mang đến những vận hội mới cho công cuộc chuyên môn hóa. Một hệ thống kinh tế dựa trên sự chịu ơn và trả ơn sẽ không thể hoạt động khi một lượng lớn những người xa lạ tham gia cùng. Vì vậy, các xã hội đã phát triển tiền tệ.

Sự phát triển của tiền không đòi hỏi những bước đột phá về công nghệ - mà hoàn toàn chỉ là cuộc cách mạng tinh thần. Nó liên quan đến việc tạo ra một thực tại liên-chủ quan chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng được chia sẻ của con người.

Tiền là bất cứ thứ gì mà con người sẵn sàng sử dụng để đại diện một cách có hệ thống cho giá trị của những thứ khác nữa, phục vụ cho mục đích trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Tiền giúp con người so sánh một cách nhanh nhất và dễ dàng nhất giá trị của những hàng hóa khác nhau.

Tiền là một phương tiện trao đổi phổ quát, giúp con người có thể quy đổi hầu như mọi thứ này sang mọi thứ khác.

Tiền còn có thể để dành dụm như của cải. Để dành dụm những của cải khác (ví dụ như kho ngũ cốc) sẽ tốn nhiều không gian và đòi hỏi cơ sở vật chất và sự chăm sóc rất tốn kém. Người ta cũng cần vận chuyển tài sản của mình từ nơi này sang nơi khác. Một số dạng của cải như bất động sản thì không thể vận chuyển được. Còn lúa mì và gạo có thể vận chuyển được nhưng rất khó khăn. Tiền sẽ giải quyết được tất cả những vấn đề này.

Tóm lại, vì tiền có thể chuyển đổi, tích trữ và vận chuyển tài sản một cách dễ dàng với chi phí thấp, nó đã góp một phần quan trọng cho sự xuất hiện của những mạng lưới thương mại phức tạp và những thị trường năng động.

Tiền đã hoạt động như thế nào?

Giá trị của tiền vỏ ốc và đồng đô-la chỉ nằm trong trí tưởng tượng của chúng ta. Giá trị của chúng không nằm trong cấu trúc hóa học, màu sắc và hình dáng của chúng. Nói cách khác, tiền không phải là một thực tại vật chất, nó là một khái niệm tâm lý.

Tiền là một hệ thống của sự tin cậy lẫn nhau, và không chỉ có vậy: tiền là một hệ thống phổ quát nhất và hiệu quả nhất của sự tin cậy lẫn nhau từng được phát minh ra.

Con người vẫn nói những ngôn ngữ bất đồng với nhau, tuân theo những quy tắc khác nhau và thờ phụng những vị Chúa riêng của mình, nhưng tất cả đều tin tưởng vào vàng bạc và tiền bằng vàng và bạc. Nếu như không có niềm tin chung này, thì các mạng lưới giao thương toàn cầu sẽ gần như không thể hoạt động được.

Những tầm nhìn đế quốc

Đế quốc (đế chế) là một trật tự chính trị có hai đặc tính quan trọng:

  • Cai trị một lượng đáng kể những dân tộc khác biệt, mỗi dân tộc sở hữu một bản sắc văn hóa riêng biệt, và có một lãnh thổ riêng biệt. Khoảng mười mấy dân tộc.
  • Đường biên giới linh hoạt và một tham vọng vô cùng tận.

Chính nhờ vào hai đặc điểm này mà các đế quốc đã thành công trong việc thống nhất những nhóm sắc tộc và vùng sinh thái đa dạng dưới một cây dù chính trị duy nhất, từ đó gắn kết ngày càng nhiều các bộ phận chủng người và hành tinh Trái đất. Một số đế quốc nổi tiếng là đế quốc La Mã, đế chế Athens, đế quốc Hán, đế quốc Anh.

Chúng ta đều biết đế quốc là các cỗ máy tàn phá và bóc lột xấu xa. Sự thật là đế quốc đã và đang là hình thức tổ chức chính trị phổ biến nhất trên thế giới trong suốt 2.500 năm qua. Hầu hết loài người trong hai thiên niên kỷ rưỡi này đã sống trong các đế quốc. Đế quốc cũng là một hình thái chính quyền rất ổn định. Hầu hết các đế quốc đều có thể dễ dàng dập tắt những cuộc nổi loạn.

Việc xây dựng và duy trì nên một đế quốc thường bắt buộc phải tàn sát nhẫn tâm một lượng lớn dân cư và đàn áp tàn bạo đối với toàn bộ những người còn sống sót, chiến tranh, sự nô dịch hóa, trục xuất và diệt chủng.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng những đế quốc không để lại điều gì có giá trị. Chối bỏ toàn bộ di sản của đế quốc chính là vứt bỏ hầu hết văn hóa loài người. Giới tính hoa đế quốc dùng lợi nhuận từ những cuộc chinh phục để đầu tư cho quân đội, pháo đài, kiến trúc, triết học, nghệt thuật, công lý và cả việc thiện nguyện.

Các đế quốc đã và đang đóng vai trò quyết định trong việc hợp nhất nhiều nền văn hóa nhỏ thành một vài nền văn hóa lớn. Đế quốc đã truyền bá một cách có chủ ý tư tưởng, thể chế, phong tục và các quy chuẩn.

2.500 năm kể từ Cyrus Đại đế, nhiều đế chế hứa hẹn sẽ tạo dựng một nền trật tự chính trị thống nhất vì lợi ích chung của loài người. Tất cả đều dối trá, và tất cả đều thất bại. Không có đế chế nào thực sự thống nhất, và không có đế chế nào thực sự phục vụ lợi ích chung của tất cả mọi người.

Tôn giáo

Cùng với tiền tệ và các đế chế, tôn giáo cũng là đặc điểm thống nhất nhân loại. Vai trò lịch sử quan trọng của tôn giáo là mang tới tính chính đáng siêu phàm cho những cấu trúc mong manh của các trật tự xã hội và hệ thống phân cấp. Tôn giáo khẳng định rằng luật pháp của chúng ta không phải là kết quả của sự thất thường nơi con người, mà được sắc phong bởi một quyền lực tuyệt đối và tối thượng. Điều này giúp cho một số điều luật cơ bản vượt lên mọi thách thức, do đó đảm bảo sự ổn định xã hội.

Tôn giáo có thể được định nghĩa là một hệ thống các quy chuẩn và giá trị con người được xây dựng dựa trên niềm tin vào một trật tự siêu nhiên. Tôn giáo có hai tiêu chí đặc trưng:

  •        Là một hệ thống các giá trị và chuẩn mực, thay vì là một phong tục hay tín ngưỡng riêng biệt.
  •        Để được xem là một tôn giáo, hệ thống cần giá trị và chuẩn mực phải được tuyên bố dựa trên các luật lệ siêu nhiên chứ không phải các quyết định của con người.

Một tôn giáo phải có ít nhất hai đặc tính: 

  • Nó phải tán thành một trật tự siêu nhiên phổ quát, luôn luôn đúng ở một thời điểm và không gian.
  • Nó phải nhấn mạnh vào việc truyền bá niềm tin này đến tất cả mọi người.

Nói cách khác, nó phải mang tính phổ quát và truyền giáo.

Sự hình thành tôn giáo

Khi thuyết vật linh là hệ thống tín ngưỡng chủ đạo, những chuẩn mực và giá trị của con người phải cân nhắc đến cả thế giới quan và lợi ích của vô số chúng sinh khác, như động vật, thực vật, thần tiên và ma quỷ. Người săn bắt hái lượm coi những loài động vật hoang dã có địa vị bình đẳng với Homo Sapiens.

Nhưng Cách mạng Nông nghiệp đã biến cây trồng và vật nuôi từ vị thế là những thành viên bình đẳng trên bàn tròn tâm linh trở thành vật sở hữu. Trải qua hàng ngàn năm sau Cách mạng Nông nghiệp, nghi thức tế lễ chủ yếu bao gồm việc con người mang cừu, rượu vang và bánh ngọt hiến tế cho các thần linh, đổi lại các vị thần này hứa hẹn cho những vụ mùa bội thu và đàn gia súc mắn đẻ.

Nhưng khi các vương quốc và mạng lưới thương mại mở rộng, các vị thần linh địa phương không thể đáp ứng hết nhu cầu của con người, con người cần tiếp cận các thực thể có sức mạnh và uy quyền bao trùm toàn thể vương quốc hoặc toàn bộ lưu vực thương mại. Từ đó, xuất hiện các tôn giáo đa thần.

Những tôn giáo này hiểu rằng thế giới được điều khiển bởi một nhóm các vị thần đầy quyền năng, chẳng hạn như nữ thần sinh sản, thần mưa và thần chiến tranh. Con người có thể khẩn cầu các vị thần, sùng kính và hiến tế cho họ, thì họ rủ lòng ban cho mưa, chiến thắng và sức khỏe.

Thuyết vật linh cho rằng con người chỉ là một trong rất nhiều sinh vật sống trên thế giới. Trong khi đó, thuyết đa thần lại ngày càng nhìn nhận thế giới như là một sự phản ánh của mối quan hệ giữa thân linh và con người. Những lời cầu nguyện, những hy sinh, những tội lỗi và những việc thiện của chúng ta xác định số phận của toàn bộ hệ sinh thái. Đa thần giáo không chỉ tôn vinh vị thế của các vị thần, mà của cả nhân loại.

Theo thời gian, một số tín đồ đa thần giáo trở nên quá yêu mến một vị thần bảo hộ đặc biệt của họ tới mức ngày càng tách khỏi đa thần giáo cơ bản. Họ bắt đầu tin rằng vị thần của họ là vị thần duy nhất, Ngài là quyền lực tối cao của cả vũ trụ. Nhưng đồng thời họ vẫn tiếp tục xem Ngài là đấng có những vị lợi, thiên kiến riêng, và tin rằng họ có thể thỏa hiệp với Ngài. Chính điều đó đã sinh ra thuyết độc thần. Ví dụ như Ki-tô giáo, Hồi giáo.

Tín đồ độc thần giáo có xu hướng cuồng tín và truyền đạo hơn rất nhiều so với tín đồ đa thần giáo. Vì thường tin rằng chỉ có một Đấng Tối Cao mà thôi, nên tín đồ độc thần bị thôi thúc phải báng bổ tất cả các tôn giáo còn lại. Đa thần giáo về bản chất là cởi mở, và hiếm khi ngược đãi những kẻ “dị giáo” và “ngoại đạo”.

Đa thần giáo không chỉ sinh ra các tôn giáo độc thần, mà còn cả những tôn giáo nhị nguyên. Những tôn giáo nhị nguyên tán thành sự tồn tại của hai sức mạnh đối lập: thiện và ác. Nhị nguyên giải thích rằng toàn bộ vũ trụ là một chiến trường giữa hai lực lượng này, do đó tất cả những gì xảy ra trong thế giới này là một phần của cuộc đấu tranh. Một số tôn giáo nhị nguyên nổi tiếng là Bái hỏa giáo, Ngộ đạo giáo, Mani giáo.

Tất cả các tôn giáo có một đặc điểm quan trọng: đều tập trung đức tin vào thần linh và thực thể siêu nhiên khác. Tuy nhiên, lịch sử tôn giáo của thế giới không chỉ gói gọn vào lịch sử của thần linh. Trong thiên niên kỷ 1 TCN, các tôn giáo hoàn toàn mới bắt đầu lan rộng khắp Á – Phi. Phật giáo ở Ấn Độ, Đạo giáo và Nho giáo ở Trung Hoa, chủ nghĩa khắc kỷ, chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa hưởng lạc ở Địa Trung Hải, được đặc trưng bởi sự coi thường thần linh.

Những tín ngưỡng này cho rằng trật tự siêu nhiên chi phối thế giới là sản phẩm của các quy luật tự nhiên chứ không phải ý chí và ý tưởng của thần linh. Một ví dụ điển hình là Phật giáo. Nhân vật trung tâm của Phật giáo là thái tử Tất Đạt Đa.

Tất Đạt Đa khám phá ra rằng khi tâm trải nghiệm bất cứ điều gì, nó thường phản ứng với tham ái, mà tham ái luôn kéo theo sự bất mãn. Khi tâm trải nghiệm một cái gì đó khó chịu, nó khao khát thoát khỏi các day dứt và bực dọc. Khi tâm trải nghiệm một cái gì đó dễ chịu, nó khao khát rằng niềm vui sẽ vẫn duy trì và tăng thêm. Do đó, tâm luôn không hài lòng và bồn chồn.

Tất Đạt Đa thấy rằng để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này. Nếu khi tâm trải nghiệm một cái gì đó dễ chịu hay khó chịu, tâm chỉ đơn giản thấu hiểu sự vật như nó vốn vậy, thì sẽ không có đau khổ. Nếu bạn gặp nỗi buồn mà không mong nỗi buồn biến mất, bạn tiếp tục cảm thấy nỗi buồn nhưng bạn không đau khổ vì nó nữa. Nếu bạn từng trải qua niềm vui mà không muốn rằng niềm vui kéo dài và nhân lên nữa, bạn vẫn tiếp tục cảm thấy niềm vui mà không mất đi sự bình an trong tâm hồn.

Tất Đạt Đa phát triển một tập hợp kỹ thuật thiền định nhằm huấn luyện tâm trí tập trung tất cả sự chú ý của nó vào câu hỏi: “Tôi đang trải nghiệm điều gì vào lúc này?” hơn là vào câu hỏi “Tôi mong muốn được trải nghiệm gì?”.

Ông hướng dẫn đệ tử tránh sát sinh, không tà dâm và không trộm cắp, do những hành vi đó chắc chắn sẽ thổi bùng ngọn lửa tham ái. Khi ngọn lửa được dập tắt, tham ái được thay thế bởi một trạng thái mãn nguyện hoàn hảo và thanh thản, được gọi là niết bàn (nghĩa đen của từ đó là “dập lửa”). Những người đã đạt tới niết bàn sẽ được giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khổ đau. Một người không thèm muốn thì sẽ không phải chịu đau khổ.

Thời hiện đại đã chứng kiến sự nổi lên của một số tôn giáo mới theo quy luật tự nhiên, chẳng hạn như chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa phát xít. Những tín điều này không thích được gọi là tôn giáo, và tự coi chúng là những ý thức hệ. Nhưng đó chỉ là về mặt ngữ nghĩa mà thôi.

Kết phần 3

Mỗi giai đoạn trong lịch sử đều là một giao lộ. Từ quá khứ đến hiện tại chỉ có một con đường duy nhất, nhưng đến tương lai thì có vô số những ngả rẽ. Một số con đường to hơn, bằng phẳng hơn, được chỉ dẫn tốt hơn, và như thế có lẽ sẽ được nhiều người chọn hơn, nhưng đôi khi lịch sử - hoặc những người làm nên lịch sử - lại đi theo những ngả rẽ bất ngờ.

Lịch sử không thể được lý giải một cách tất định cũng như không thể dự đoán trước được, vì nó có tính hỗn độn.

Lịch sử không phải là phương tiện để đưa ra những dự đoán chính xác. Chúng ta nghiên cứu lịch sử không phải để biết tương lai, mà để mở rộng chân trời hiểu biết của mình, để hiểu rằng tình trạng hiện nay của chúng ta không phải do tự nhiên, cũng không phải do tất yếu, và kết quả là chúng ta có nhiều lựa chọn hơn mình tưởng.

Những lựa chọn của lịch sử đã không được quyết định vì lợi ích của con người. Không có bằng chứng nào cho thấy lịch sử đang vận hành vì lợi ích của con người. Chạy đua vũ trang là một ví dụ mà ai cũng biết. Nhiều cuộc đua vũ trang đã làm phá sản tất cả những người tham gia, mà không thực sự làm thay đổi được cán cân quyền lực quân sự.

Phần 4: Cách mạng Khoa học

500 năm qua đã chứng kiến một sự tăng trưởng phi thường và chưa từng có tiền lệ trong sức mạnh con người. Dân số đã tăng gấp 14 lần, sản xuất gấp 240 lần, tiêu thụ năng lượng gấp 115 lần, và ngày nay con người có thể đi vòng quanh thế giới một cách an toàn và dễ dàng chỉ trong vòng 48 giờ.

1674, con người phát minh ra kính hiển vi và thấy cả một thế giới vi sinh vật.

16/07/1945, các nhà khoa học Mỹ đã cho nổ quả bom nguyên tử đầu tiên tại Alamogordo, bang New Mexico. Từ thời điểm đó trở đi, loài người đã có khả năng không chỉ thay đổi tiến trình lịch sử, mà còn có thể kết thúc nó.

20/07/1969, con người đặt chân lên Mặt trăng.

Tiến trình lịch sử dẫn đến vụ thử nghiệm Alamogordo và sự kiện con người đặt chân lên Mặt trăng được biết đến với tư cách là Cách mạng Khoa học.

Khoa học hiện đại sẵn sàng thừa nhận mình ngu dốt, nó giả định rằng chúng ta không biết gì về mọi thứ. Tinh thần sẵn sàng thừa nhận sự ngu dốt khiến khoa học hiện đại trở nên năng động hơn, linh hoạt hơn, và ham tìm tòi hơn bất kỳ truyền thống nào trước đó của tri thức. Điều này giúp mở toang năng lực hiểu biết về cách thức hoạt động của thế giới, cũng như khả năng phát minh ra những công nghệ mới của chúng ta.

Có một nguyên tắc chung cho các phương pháp nghiên cứu: đều dựa vào việc thu thập các quan sát thực nghiệm - những gì chúng ta có thể quan sát được với ít nhất một trong những giác quan của mình - và hệ thống chúng lại với sự giúp đỡ của những công cụ toán học.

Tuy nhiên, chỉ những quan sát đơn thuần thì không phải là kiến thức. Để hiểu được vũ trụ, chúng ta cần phải kết nối những quan sát thành hệ thống lý thuyết toàn diện. Truyền thống trước đây thường xây dựng lý thuyết dưới dạng những câu chuyện. Khoa học hiện đại dùng toán học. 

1687, Isaac Newton đã trình bày một lý thuyết tổng quát về chuyển động và thay đổi. 

Đến khoảng cuối thế kỷ 19, cuộc cách mạng tiếp theo trong vật lý - thuyết tương đối và cơ học lượng tử.

Một nhánh toán học mới đã phát triển trong vòng 200 năm qua để giải quyết những khía cạnh phức tạp hơn trong thực tế: toán thống kê. Các mô hình xác suất đã trở thành trọng tâm đối với kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, chính trị học, những ngành khoa học tự nhiên và xã hội khác.

Qua các thế kỷ, khoa học đã cung cấp cho chúng ta nhiều công cụ mới. Một số là công cụ tinh thần, như công cụ dùng để dự đoán tỷ lệ tử vong và tăng trưởng kinh tế. Quan trọng hơn thế là công cụ công nghệ.

Mô hình lý tưởng của sự tiến bộ

Trước khi có Cách mạng Khoa học, phần lớn các nền văn hóa của nhân loại đều không tin vào sự tiến bộ.

Khi văn hóa hiện đại thừa nhận có rất nhiều thứ quan trọng mà con người vẫn chưa biết đến, và khi việc thừa nhận sự ngu đốt đó kết hợp nhuần nhuyễn với ý tưởng cho rằng các khám phá khoa học có thể mang lại cho chúng ta những sức mạnh mới, người ta bắt đầu ngờ rằng cuối cùng tiến bộ thực sự có thể xảy ra. Khi khoa học bắt đầu giải quyết lần lượt hết nan đề này đến nan đề kia, nhiều người đã bị thuyết phục rằng con người có thể giải quyết được mọi vấn đề bằng cách tiếp thu và áp dụng kiến thức mới. Nghèo nàn, bệnh tật, chiến tranh, đói khát, già nua và thậm chí cái chết đều không phải là định mệnh không thể tránh khỏi của loài người.

Khoa học là một sự nghiệp rất tốn kém. Hầu hết các nghiên cứu khoa học đều được tài trợ bởi ai đó tin rằng chúng có thể giúp họ đạt được một số mục tiêu chính trị, kinh tế hay tôn giáo. Ngay cả nếu chúng ta muốn tài trợ cho khoa học thuần túy mà không bị chi phối bởi lợi ích chính trị, kinh tế, tôn giáo, điều này có lẽ là bất khả thi. Vì các nguồn lực của chúng ta đều có giới hạn.

Nghiên cứu khoa học chỉ có thể phát triển thịnh vượng khi kết hợp với một tôn giáo hay ý thức hệ nào đó. Ý thức hệ biện hộ cho các chi phí của nghiên cứu. Đổi lại, ý thức hệ chi phối chương trình khoa học và quyết định làm gì với những phát kiến. Chúng ta phải xem xét các sức mạnh tư tưởng, chính trị và kinh tế đã định hướng cho vật lý học, sinh học và xã hội học, đẩy chúng đi theo những hướng nhất định trong khi bỏ qua những hướng khác.

Hai sức mạnh cụ thể đáng để chúng ta chú ý đến là: chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản.

Cuộc hôn nhân giữa khoa học và đế quốc

Đến cuối thế kỷ 15, châu Âu trở thành một khu vực sôi động với nhiều sự phát triển về quân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa quan trọng. Đến năm 1900, châu Âu kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế và hầu hết các lãnh thổ trên thế giới. Dưới sự bảo hộ của châu Âu, một trật tự thế giới mới và nền văn hóa toàn cầu đã xuất hiện. Những tổ hợp quân sự - công nghệ - khoa học bùng nổ ở châu Âu. Khoa học hiện đại và chủ nghĩa tư bản đã giúp châu Âu có khả năng thống trị thế giới hiện đại. 

Tư bản

Tiền bạc là yêu cầu thiết yếu cho công cuộc xây dựng đế quốc lẫn thúc đẩy khoa học. 

Trước kỷ nguyên hiện đại, khả năng của tiền bị giới hạn. Trong hầu hết các trường hợp, tiền chỉ có thể đại diện và chuyển đổi thành những gì thực sự hiện hữu.  Ví dụ Mc Doughnut có ước mơ mở một tiệm bánh nhưng cô không có tiền. Nếu không có tiền, cô không thể mở tiệm bánh. Nếu không có tiệm bánh, cô không thể làm bánh. Nếu không làm ra bánh, cô không thể kiếm được tiền. Nếu không có tiền, cô không thể thuê nhà thầu. Nếu không có nhà thầu thì không có tiệm bánh. Loài người bị mắc kẹt trong tình trạng khó khăn này đã hàng ngàn năm, các nền kinh tế vẫn tiếp tục bị đóng băng.

Cách thoát khỏi cái bẫy này chỉ được tìm ra trong kỷ nguyên hiện đại, với sự xuất hiện của một hệ thống mới dựa trên sự kỳ vọng vào tương lai. Trong đó, con người chấp nhận hình dung ra hàng hóa ảo - vốn không tồn tại trong hiện tại - với một dạng đặc biệt của tiền mà họ gọi là "tín dụng". Tín dụng cho ta khả năng xây dựng hiện tại bằng chi phí của tương lai. Nó được thiết lập dựa trên giả đình rằng những nguồn lực tương lai chắc chắn sẽ dồi dào hơn những nguồn lực hiện tại.

Sự xuất hiện của Cách mạng Khoa học và ý tưởng về sự tiến bộ đã giúp mọi thứ trở nên tốt hơn. Bất cứ ai tin tưởng vào sự tiến bộ đều tin rằng những phát kiến địa lý, phát minh khoa học kỹ thuật và phát triển về mặt tổ chức có thể làm tăng tổng sản lượng hàng hóa, hoạt động thương mại và sự giàu có của con người.

Ý tưởng về sự tiến bộ đã thuyết phục con người đặt ngày càng nhiều niềm tin vào tương lai. Sự tin tưởng này đã tạo ra nguồn tín dụng, tín dụng đã mang lại sự tăng trưởng kinh tế thực sự, và sự tăng trưởng củng cố niềm tin vào tương lai, mở đường cho càng nhiều lượng tín dụng thêm nữa. 

Một phần chủ yếu của kinh tế chủ nghĩa tư bản hiện đại là sự xuất hiện của một nguyên tắc đạo đức mới, theo đó lợi nhuận phải được tái đầu tư vào sản xuất (mở rộng nhà máy, tiến hành nghiên cứu khoa học, phát triển những sản phẩm mới). Quá trình này đem lại lợi nhuận mới, tiếp tục được tái đầu tư vào sản xuất, làm tăng sản lượng và mang lại lợi nhuận nhiều hơn, và cứ thế đến vô tận.

Chủ nghĩa tư bản dần trở nên vượt xa hơn một học thuyết kinh tế rất nhiều. Hiện nay, nó bao gồm một lý thuyết đạo đức - một bộ những bài giảng về cách mọi người nên ứng xử ra sao, giáo dục con cái của họ và suy nghĩ như thế nào. Nguyên lý cơ bản của nó cho rằng tăng trưởng kinh tế chính là ân điển tối cao, vì công lý, tự do và thậm chí cả hạnh phúc, tất cả đều phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế. 

Tuy nhiên, liệu chiếc bánh kinh tế có thể to ra vô hạn? Mỗi chiếc bánh đều đòi hỏi nguyên liệu và năng lượng. Homo Sapiens sớm muộn sẽ làm cạn kiệt nguồn nguyên liệu và năng lượng của Trái đất.

Cách mạng công nghiệp 

Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi năng lượng và nguyên vật liệu, mà chúng lại là hữu hạn. Nếu như nguồn năng lượng và nguyên liệu này cạn kiệt, toàn bộ hệ thống sẽ sụp đổ. 

Về bản chất, Cách mạng Công nghiệp là một cuộc cách mạng trong việc chuyển đổi năng lượng. Cứ vài thập kỷ chúng ta lại khám phá ra một nguồn năng lượng mới. Trước Cách mạng Công nghiệp, thị trường năng lượng của con người gần như hoàn toàn phụ thuộc vào các loài thực vật. Sau đó con người khai thác những nguyên liệu thô (sắt), phát minh ra những nguyên vật liệu mới như nhựa, và khám phá ra các vật liệu tự nhiên như silicon, bán dẫn, nhôm.

Cách mạng Công nghiệp đã đem lại một sự kết hợp chưa từng có giữa nguồn năng lượng và nguyên vật liệu, hai thứ đều dồi dào và rẻ mạt. Kết quả là một sự bùng nổ trong hoạt động sản xuất của con người.

Những phương pháp chăn nuôi công nghiệp đã dẫn đến sự gia tăng mạnh về sản xuất nông nghiệp và dự trữ thức ăn cho con người. Cùng với sự cơ giới hóa việc trồng cây, chăn nuôi công nghiệp là cơ sở cho toàn bộ trật tự kinh tế xã hội hiện đại. Con người hiện nay sản xuất ra nhiều thép hơn, nhiều quần áo hơn và xây dựng nhiều công trình kiến trúc hơn bao giờ hết. Cung bắt đầu vượt quá cầu. Và một vấn đề hoàn toàn mới đã nảy sinh: ai sẽ là người mua tất cả những thứ này?

Chủ nghĩa tiêu dùng

Chủ nghĩa tiêu dùng khuyến khích mọi người tiêu thụ ngày càng nhiều sản phẩm và dịch vụ, chiều chuộng bản thân, làm hư bản thân, không còn tiết kiệm.

Chúng ta mua rất nhiều sản phẩm không thực sự cần, mua cho "hợp thời". Mua sắm trở thành một trò tiêu khiển.

Sự nở rộ tiêu dùng được thể hiện rõ nhất trên thị trường thực phẩm. Trong thế giới giàu có ngày nay, một trong những vấn đề sức khỏe hàng đầu là bệnh béo phì.

Cuộc cách mạng lâu dài

Con người giành quyền kiểm soát một lượng dồi dào các vật liệu mới và các nguồn năng lượng, đồng thời phá hủy những gì còn lại của môi trường sống tự nhiên và đẩy hầu hết các loài khác tới bờ vực tuyệt chủng.

Hiện tượng nóng lên toàn cầu, mực nước biển dâng cao và ô nhiễm trên diện rộng có thể làm cho Trái đất không còn dễ sống với loài người.

Cách mạng Công nghiệp đã biến thời gian biểu và dây chuyền sản xuất trở thành khuôn mẫu cho hầu như mọi hoạt động của con người. Các nhà máy áp dụng khung thời gian cố định lên công việc, các trường học có thời khóa biểu, bệnh viện, cơ quan chính phủ và cửa hàng tạp hóa cũng có giờ kinh doanh. Đặc biệt là hoạt động giao thông công cộng.

Năm 1880, chính phủ Anh đã yêu cầu mọi lịch trình ở Anh phải hiệu chỉnh theo đồng hồ được đặt tại đài thiên văn Greenwich. Lần đầu tiên trong lịch sử có một đất nước thông qua múi giờ chuẩn quốc gia và bắt buộc người dân phải sống theo một chiếc đồng hồ nhân tạo chứ không phải theo giờ địa phương hay chu kỳ mặt trời. Khởi đầu này đã sinh ra một hệ thống thời gian mang tính toàn cầu.

Cách mạng Công nghiệp đã mang đến hàng tá biến động lớn trong xã hội loài người. Thời gian công nghiệp, đô thị hóa, sự biến mất của nền nông nghiệp thuần túy, sự gia tăng của giai cấp vô sản công nghiệp, sự trao quyền cho những người bình thường, dân chủ hóa, văn hóa giới trẻ và sự tan rã của chế độ phụ hệ. 

Và đã xảy ra cuộc cách mạng xã hội quan trọng nhất của loài người: sự sụp đổ của gia đình và cộng đồng địa phương, được thay thế bằng chính quyền và thị trường.

Sự sụp đổ của gia đình và cộng đồng

Trước khi có Cách mạng Công nghiệp, cuộc sống hàng ngày của mọi người xoay quanh ba trụ cột: gia đình hạt nhân, gia đình mở rộng và cộng đồng gắn bó. 

Khi một người bị bệnh, gia đình chăm sóc người đó. Khi một người già đi, gia đình hỗ trợ, các con là quỹ hưu trí. Khi một người qua đời, gia đình chăm sóc lũ trẻ mồ côi. Nếu ai đó muốn xây dựng một túp lều, gia đình sẽ giúp một tay. Nếu ai đó muốn mở doanh nghiệp, gia đình sẽ kiếm khoản tiền cần thiết. Nếu ai đó muốn kết hôn, gia đình sẽ lựa chọn, hoặc ít nhất là xem xét kỹ lưỡng người vợ hoặc chồng tương lai. Nếu xung đột phát sinh với hàng xóm, gia đình sẽ chung tay bảo vệ người đó.

Tất cả đã thay đổi đáng kể trong hai thế kỷ qua. Cách mạng Công nghiệp đã mang lại cho thị trường sức mạnh mới to lớn, cung cấp cho chính quyền phương tiện vận chuyển và truyền thông mới, có đội ngũ nhân viên, giáo viên, cảnh sát và nhân viên xã hội. 

Theo thời gian, chính quyền và thị trường sử dụng sức mạnh để làm suy yếu những mối liên kết truyền thống của gia đình và cộng đồng. Chính quyền và thị trường tiếp cận mọi người với một đề nghị không thể chối từ: "Trở thành một công dân. Cưới bất kỳ ai mà bạn thích, làm bất cứ công việc nào phù hợp, sống bất cứ nơi nào bạn muốn. Bạn không còn phụ thuộc vào gia đình hoặc cộng đồng nữa. Chính quyền và thị trường sẽ cung cấp thức ăn, chỗ ở, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội và việc làm, lương hưu, bảo hiểm và sự bảo trợ".

Thị trường và chính quyền nuôi dưỡng "các cộng đồng tưởng tượng" bao gồm hàng triệu người lạ, và được thiết kế theo các nhu cầu mang tính quốc gia và thương mại. Một cộng đồng tưởng tượng là một cộng đồng của những người không thực sự biết nhau, nhưng tưởng rằng họ biết nhau. Hai ví dụ quan trọng nhất cho sự phát triển của cộng đồng tưởng tượng là quốc gia và hội tiêu dùng. Quốc gia là cộng đồng tưởng tượng của chính quyền. Hội tiêu dùng là cộng đồng tưởng tượng của thị trường. Các khách hàng trong một thị trường hoặc tất cả các thành viên của một quốc gia không thể thực sự hiểu nhau theo cách thức mà những người cùng làng biết nhau trong quá khứ. Giống như tiền bạc, công ty trách nhiệm hữu hạn và nhân quyền, dân tộc và cộng đồng người tiêu dùng là những thực thể liên-chủ quan. Chúng chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng tập thể của chúng ta, nhưng sức mạnh của chúng lại rất lớn.

Hòa bình trong thời đại chúng ta 

7 thập kỷ đã trôi qua kể từ khi kết thúc Thế chiến II. Trong thời gian này con người đã trải qua tương đối nhiều các cuộc chiến tranh và diệt chủng. Tuy nhiên, những thập kỷ này cũng là thời kỳ yên bình nhất trong lịch sử nhân loại. Chính những thập kỷ này đã trải qua sự thay đổi về kinh tế, xã hội và chính trị nhiều hơn bất cứ thời kỳ nào trước đó.

Hiện nay chúng ta đang sống trong hòa bình đến mức chúng ta dễ dàng quên đi thế giới đã từng bạo lực như thế nào. Hầu hết các nơi trên thế giới, mọi người đi ngủ mà không phải sợ nửa đêm một bộ tộc láng giềng có thể bao vây làng mình và giết tất cả mọi người. Chúng ta có thể đi du lịch mà không sợ bị cướp. Học sinh không phải e sợ giáo viên phạt nặng, trẻ em không phải lo bị bán làm nô lệ khi cha mẹ không thể trả các hóa đơn, phụ nữ biết rằng pháp luật cấm chồng họ đánh đập,... Bạo lực đã suy giảm.

Hiện nay, hầu hết các quốc gia cũng không còn hứng thú với chiến tranh, vì 4 lý do sau:
  • Cái giá của chiến tranh đã tăng lên đáng kể. Vũ khí hạt nhân đã
  • Lợi nhuận của chiến tranh cũng đã giảm. Ngày xưa khi phát động chiến tranh thì có thể cướp tài sản hay chiếm đóng đất đai, nhưng ngày ngay sự giàu có chủ yếu đến từ nguồn nhân lực, kiến thức kỹ thuật và các cấu trúc kinh tế xã hội phức tạp như ngân hàng. Do đó rất khó để mang đi hoặc sáp nhập vào lãnh thổ nào đó.
  • Hòa bình trở nên hấp dẫn hơn bao giờ hết, vì hòa bình mang lại lợi ích. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện đại, thương mại và đầu tư nước ngoài đã trở nên hết sức quan trọng.
  • Một sự chuyển đổi khổng lồ đã diễn ra trong nền văn hóa chính trị toàn cầu. Giới tinh hoa trong lịch sử đều xem chiến tranh là một điều tích cực. Còn thời đại của chúng ta là lần đầu tiên trong lịch sử mà thế giới bị chi phối bởi giới tinh hoa yêu hòa bình - các chính trị gia, doanh nhân, trí thức và nghệ sĩ thực sự nhìn nhận chiến tranh như là cái ác và có thể tránh được. 
Cái kết của Homo Sapiens

Homo Sapiens đang vượt qua những giới hạn về mặt sinh học, phá vỡ các quy luật của chọn lọc tự nhiên, thay thế chúng bằng các quy luật thiết kế thông minh. 

Việc thay thế chọn lọc tự nhiên bởi thiết kế thông minh có thể xảy ra theo một trong ba cách sau:
  1. Kỹ thuật sinh học
  2. Kỹ thuật cyborg
  3. Kỹ thuật về sự sống vô cơ
Kỹ thuật sinh học là sự can thiệp cố ý của con người trên cấp độ sinh học (ví dụ cấy một gen) nhằm thay đổi hình dạng, khả năng, nhu cầu hay mong muốn của một sinh vật, hiện thực hóa một số ý tưởng văn hóa đã có từ trước. Ví dụ: thay đổi giới tính, biến đổi gen của vi khuẩn E.coli để sản xuất nhiên liệu sinh học, biến đổi gen của một số loài nấm để sản xuất insulin điều tị bệnh tiểu đường....

Kỹ thuật cyborg: cyborg là những thực thể kết hợp giữa các phần hữu cơ và vô cơ, ví dụ như một người với đôi tay nhân tạo. Với kỹ thuật này, có thể cấy ghép các chiesp điện tử và máy dò vào cơ thể ruồi, cho phép kiểm soát sự di chuyển của nó từ xa, nhận và truyền thông tin, để nghe trộm thông tin. Ngoài ra còn có Cá mập cyborg, giúp xác định các trường điện từ dưới nước do tàu ngầu và bom mìn tạo ra.

Cách thứ ba để thay đổi các quy luật của cuộc sống là thiết kế một thực thể hoàn toàn phu hữu cơ, ví dụ là các chương trình máy tính có thể trải qua quá trình tiến hóa độc lập. Ban đầu chương trình được các kỹ sư con người mã hóa nhưng sau đó nó có thể tự mình thu được thông tin mới, tự dạy mình các kỹ năng mới và đạt được hiểu biết vượt xa những người tạo ra nó. 

Ngày càng có nhiều lĩnh vực đang bị khuấy động khỏi những cách hoạt động xưa cũ của chúng. Các luật sư cần suy nghĩ lại về vấn đề riêng tư và danh tính; các chính phủ phải đối mặt với việc suy nghĩ lại về vấn đề chăm sóc sức khỏe và bình đẳng; các hiệp hội thể thao và cơ sở giáo dục phải định nghĩa lại sự công bằng và thành tích; các quỹ hưu trí và thị trường lao động nên điều chỉnh lại cho phù hợp với một thế giới trong đó người 60 tuổi mới chỉ như 30...

Giai đoạn tiếp theo của lịch sử sẽ bao gồm không chỉ những biến đổi về mặt công nghệ và tổ chức, mà còn cả những biến đổi căn bản trong ý thức và bản sắc của con người. Và những biến đổi này có thể căn bản tới mức họ sẽ đặt nghi vấn với chính cụm từ "con người".

Lời kết: Loài động vật đã trở thành Chúa Trời

70.000 năm trước, Homo sapiens vẫn là một loài động vật tầm thường chỉ chú tâm đến công việc của mình ở một góc châu Phi.

Trong thiên niên kỷ tiếp theo, nó tự biến mình thành bá chủ của toàn bộ hành tinh và kẻ khủng bố đối với hệ sinh thái. Giờ đây, nó đang đứng bên ranh giới trở thành một vị thần, sẵn sàng để có được không chỉ sự trẻ mãi không già, mà còn cả những khả năng thần thánh của sự sáng tạo và hủy diệt.

Thật không may, cho đến nay đế chế Sapiens trên Trái đất chỉ tạo ra rất ít thứ khiến chúng ta có thể tự hào. Chúng ta đã làm chủ được môi trường xung quanh, gia tăng sản xuất lương thực, xây dựng các thành phố, thành lập các đế quốc và tạo ra mạng lưới thương mại rộng khắp. Nhưng chúng ta có giảm được nỗi đau khổ trên thế giới? Lịch sử đã cho thấy sự gia tăng ồ ạt trong sức mạnh của con người không hẳn đã nâng cao hạnh phúc của từng Sapiens, và thường gây ra đau khổ to lớn cho các loài động vật khác.

Trong vài thập kỷ qua, chúng ta cuối cùng cũng đạt được một số tiến bộ thực sự trong điều kiện sống của con người, với việc giảm đói nghèo, bệnh dịch và chiến tranh. Song, tình hình của các động vật khác đang xấu đi nhanh chóng hơn bao giờ hết, và sự tiến bộ của phần lớn nhân loại lại quá mới mẻ và mong manh để có thể chắc chắn về điều gì. Hơn nữa, bất kể những điều đáng ngạc nhiên mà con người có khả năng làm được, chúng ta vẫn không chắc về các mục tiêu của mình và dường như chúng ta đang bất mãn hơn bao giờ hết. Chúng ta đã tiến lên từ những chiếc xuồng đi sông, đến thuyền có mái chèo, đến tàu hơi nước, đến tàu con thoi – nhưng không ai biết chúng ta sẽ đi tới đâu. Chúng ta mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nhưng gần như không biết làm gì với tất cả sức mạnh đó. Tệ hơn nữa, con người dường như vô trách nhiệm hơn bao giờ hết. Chúng ta chỉ làm bạn với những vị thần tự tạo ra và các định luật vật lý, mà chẳng đếm xỉa đến điều gì khác. Hậu quả là chúng ta đang gây nên sự hủy hoại thảm khốc cho các loài động vật anh em và hệ sinh thái xung quanh, khi tìm kiếm thêm chút thoải mái và vui sướng hơn cho riêng mình, nhưng chẳng bao giờ tìm thấy sự hài lòng. 

Liệu có điều gì nguy hiểm hơn những vị thần bất mãn và vô trách nhiệm, họ không biết mình thực sự muốn gì?

Hết

Xem video review: https://youtu.be/6ozYn5wQZJw

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét